Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 69, Chúa Nhật 15.06.2008


MỤC LỤC 

Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội Và Ðặc Biệt Về Chức Giám Mục (tiếp theo)   Lumen Gentium

TÔN SƯ VÀ TRỌNG ĐẠO - ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐỒNG HÀNH                  Lm. Quang Uy, DCCT

Học Hỏi về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo (tiếp theo)                                  Br. Huynhquảng

LỜI NGUYỆN CỦA MỘT LINH MỤC CHIỀU CHÚA NHẬT                           Lm. Michel Quoist

LINH MỤC LÀ NHỊP CẦU giữa CON NGƯỜI và THIÊN CHÚA       Gm. Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ                                                       Nhà Văn Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC

SỰ BẤT HẠNH CỦA CON SÒ                                              Nhà văn Hương Vĩnh chuyển ngữ

ISRAEL LIỆU CÓ THỂ SỐNG CÒN ĐƯỢC KHÔNG?                       Bác Sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

CỔ VÕ SỰ TỰ LẬP (1)                                                                             Lm. Lê Văn Quảng

Cho đến cùng                                                            Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

Sau Thiên Tai, Bão Lụt, Động Đất                                                        Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

TIỀN…BẠC                                                                                  Chuyện phiếm của Gã Siêu


Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội Và Ðặc Biệt Về Chức Giám Mục

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương III

Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội

Và Ðặc Biệt Về Chức Giám Mục

 

27. Nhiệm vụ cai quản. Là đại diện và sứ giả Chúa Kitô, các Giám Mục điều khiển Giáo Hội địa phương mà Chúa đã ủy thách cho 58, nhờ lời khuyên bảo, khuyến khích, gương lành, và còn bằng uy thế cùng quyền bính thánh thiện nữa. Thực vậy, các ngài chỉ dùng quyền bính để xây dựng đoàn chiên trong chân lý và thánh thiện, và luôn tâm niệm rằng: kẻ cao trọng hãy nên như kẻ rốt hết, người làm chủ hãy nên như tôi tớ (x. Lc 22,26-27). Quyền bính các ngài đích thân thi hành nhân danh Chúa Kitô, là quyền bính riêng biệt, thông thường và trực tiếp; nhưng việc thi hành cuối cùng còn lệ thuộc vào quyền tối cao của Giáo Hội, và có thể bị giới hạn phần nào vì lợi ích của Giáo Hội hay của các tín hữu. Với quyền bính ấy, các Giám Mục có quyền thiêng liêng và trước mặt Chúa có nhiệm vụ đặt ra các luật lệ cho những người thuộc quyền, xét xử và qui định tất cả những gì liên hệ tới việc thờ phượng và việc tông đồ.

Chính các Giám Mục được trao phó trọn vẹn trách nhiệm mục vụ, tức là thường xuyên và hàng ngày săn sóc con chiên mình. Không được coi các ngài như những đại diện của Giáo Hoàng Roma, vì các ngài thi hành quyền bính riêng của mình và thực sự là thủ lãnh của các dân mà các ngài cai quản 59. Vì thế, quyền bính Giám Mục không bị quyền tối cao và phổ quát làm giảm bớt, nhưng trái lại còn được nâng đỡ, củng cố và bảo đảm 60, vì Chúa Thánh Thần hằng duy trì thể thức cai quản do Chúa Kitô thiết lập trong Giáo Hội.

Ðược Chủ sai đi cai quản gia đình mình, Giám Mục phải chiêm ngắm gương mẫu Chúa Chiên Lành, Người đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ (x. Mt 20,28; Mc 10,45) và hiến mạng sống mình vì con chiên (x. Gio 10,11). Ðược chọn giữa loài người và đầy yếu hèn, ngài có thể cảm thông nỗi đau khổ với những ai dốt nát và lầm lạc (x. Dth 5,1-2). Giám Mục không nên từ chối lắng nghe những kẻ thuộc quyền, nhưng hãy ân cần săn sóc họ như những người con đích thực, và khuyên nhủ họ hăng hái cộng tác với mình. Vì phải trả lẽ với Chúa về linh hồn con cái mình (x. Dth 13,17), Giám Mục hãy cầu nguyện, rao giảng và làm mọi việc bác ái săn sóc họ và cả những người chưa thuộc đoàn chiên duy nhất mà ngài cũng phải coi như được trao phó cho mình trong Chúa. Như Tông Ðồ Phaolô, Giám Mục mắc nợ tất cả mọi người, cho nên hãy hăng hái rao giảng Phúc Âm cho mọi người, (x. Rm 1,14-15) và khuyến khích các tín hữu làm việc tông đồ và truyền giáo. Còn tín hữu phải liên kết với Giám Mục như Giáo Hội gắn bó với Chúa Giêsu Kitô, và như Chúa Giêsu Kitô gắn bó với Chúa Cha, hầu nhờ sự hiệp nhất ấy tất cả mọi sự đều hòa hợp 61 và trở nên phong phú cho vinh quang Thiên Chúa (x. 2Cor 4,15). 36*

28. Các linh mục trong mối tương quan với Chúa Kitô, với các Giám Mục, với anh em Linh Mục và với dân Chúa. 37* Ðược Chúa Cha thánh hóa và phái đến thế gian (x. Gio 10,36), Chúa Kitô nhờ các Tông Ðồ, đã làm cho các Giám Mục, những vị kế nghiệp các Tông Ðồ, có thể tham dự vào việc cung hiến và vào sứ mạng của mình 62. Các Giám Mục lại giao nhiệm vụ thừa tác của mình một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo Hội theo từng cấp bậc. Như thế, thừa tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Giáo Hội được thi hành bởi những người có chức vụ khác nhau mà từ xưa được gọi là Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế 63. Linh Mục, dù không có quyền tư tế tối cao và tùy thuộc Giám Mục khi thi hành quyền bính, cũng hiệp nhất với Giám Mục trong tước vị Linh Mục 64. Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh 65, linh mục được cung hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, thầy cả Thượng Phẩm vĩnh viễn (x. Dth 5,1-10; 7,24; 9,11-28), để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước 66. Theo cấp bậc thừa tác của mình tham dự vào nhiệm vụ Chúa Kitô, Ðấng trung gian duy nhất (x. 1Tm 2,5), các linh mục loan báo lời Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng các ngài thực thi thánh vụ mình cách tuyệt hảo nhất là trong Thánh Lễ hoặc cộng đồng tạ ơn, trong đó, các ngài thay thế Chúa Kitô 67 công bố mầu nhiệm của Chúa, kết hợp với ước nguyện của tín hữu vào hy lễ của thủ lãnh và trong hy tế Thánh Lễ, hiện tại hóa và áp dụng hy lễ duy nhất của Tân Ước 68, là của lễ tinh tuyền đã một lần tự dâng hiến lên Chúa Cha (x. Dth 9,11-28), cho tới ngày Chúa trở lại (x. 1Cor 11,26). Linh mục chu toàn cách tuyệt hảo chức vụ giao hòa và an ủi đối với các tín hữu thống hối và bệnh tật. Linh mục dâng lên Chúa Cha các nhu cầu và lời khẩn nguyện của các tín hữu (x. Dth 5,1-3). Trong quyền hạn mình, linh mục thi hành nhiệm vụ Chúa Kitô mục tử và thủ lãnh 69, tụ họp gia đình Thiên Chúa là cộng đoàn huynh đệ có cùng một tâm hồn 70, và nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, dẫn đưa cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa Cha. Linh mục thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý giữa đoàn chiên (x. Gio 4,24). Sau hết, vất vả truyền giáo và dạy dỗ (x. 1Tm 5,17), linh mục tin những gì ngài đã đọc thấy và suy niệm trong lề luật Chúa, dạy dỗ những gì mình tin và thực hành những điều mình dạy 71.

Là cộng sự viên khôn ngoan, là phụ tá và là dụng cụ của hàng Giám Mục 72, linh mục được kêu gọi để phục vụ Dân Thiên Chúa. Các ngài hợp với Giám Mục mình tạo thành linh mục đoàn duy nhất với nhiều chức vụ khác nhau 73. Trong mỗi cộng đoàn tín hữu địa phương, linh mục, là hiện thân của Giám Mục mà các ngài hằng liên kết với lòng tin tưởng và quảng đại, lãnh nhận phần chức vụ cùng chia xẻ nỗi lo lắng của Giám Mục và hằng ngày ân cần thi hành chức vụ ấy. Dưới quyền Giám Mục, linh mục thánh hóa và dẫn dắt một phần đoàn chiên Chúa trao phó cho mình, làm cho người ta thấy được Giáo Hội phổ quát ngay tại địa phương mình, góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng toàn thân thể Chúa Kitô (x. Eph 4,12). Luôn mưu cầu ích lợi cho con cái Thiên Chúa, linh mục phải hăng hái tham gia công cuộc mục vụ của cả giáo phận, hơn nữa của toàn thể Giáo Hội. Vì tham dự vào chức linh mục và vào sứ mệnh của Giám Mục, linh mục phải thực sự xem ngài như cha mình và phải kính cẩn vâng phục ngài. Phần Giám Mục cũng phải coi sóc các linh mục cộng tác với mình như con cái và bạn hữu, như Chúa Kitô không gọi môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn hữu (x. Gio 15,15). Do đó, tất cả các linh mục triều cũng như dòng, bởi chức thánh và thừa tác vụ, được nối kết vào Giám Mục Ðoàn và phục vụ cho lợi ích của toàn thể Giáo Hội tùy theo ơn gọi và ân sủng riêng.

Một tình huynh đệ thắm thiết nối kết tất cả các linh mục với nhau vì cùng tham dự một chức thánh và một sứ mệnh chung. Tình huynh đệ đó phải bộc lộ một cách tự phát tự nguyện qua sự tương trợ cả tinh thần lẫn vật chất, trong phạm vi mục vụ cũng như trong phạm vi cá nhân, trong các buổi hội họp, cũng như trong sự hiệp thông với nhau qua đời sống, việc làm và tình bác ái.

Linh mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô, vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép Thánh Tẩy và giáo huấn (x. 1Cor 4,15 và 1P 1,23). Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình, để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo Hội Thiên Chúa (x. 1Cor 1,2; 2Cor 1,1) là danh hiệu riêng biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa là Dân duy nhất. Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ ra cho tín hữu và lương dân, cho người công giáo và ngoài công giáo thấy gương mặt của một thừa tác vụ thực sự tư tế và mục vụ, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống. Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (x. Lc 15,4-7) những người đã lãnh nhận phép Thánh Tẩy trong Giáo Hội công giáo nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay nhất là đã mất đức tin.

Ngày nay, vì nhân loại ngày càng hiệp nhất về dân sự, kinh tế và xã hội, nên các linh mục càng phải loại trừ mọi mầm mống chia rẽ, phải nối kết cố gắng và khả năng mình dưới sự hướng dẫn của các Giám Mục và Giáo Hoàng, để toàn thể nhân loại hiệp nhất trong gia đình Thiên Chúa. 38*

29. Các phó tế. Ở bậc thấp hơn của hàng giáo phẩm, có các phó tế, những người đã được đặt tay "không phải để lãnh nhận chức vụ linh mục, nhưng là để phục vụ" 74. Thực vậy, được ân sủng bí tích bồi bổ, các phó tế, hiệp thông với Giám Mục và Linh Mục Ðoàn, phục vụ Dân Thiên Chúa bằng việc phụng vụ, giảng dạy, và bác ái. Khi được những vị có thẩm quyền chỉ định, các phó tế được cử hành trọng thể phép Thánh Tẩy, giữ và trao Mình Thánh Chúa, nhân danh Giáo Hội chứng kiến và chúc lành hôn phối, mang của ăn đàng cho kẻ hấp hối, đọc Thánh Kinh cho tín hữu, giáo huấn và khuyên nhủ dân chúng, chủ tọa việc phụng tự và kinh nguyện của tín hữu, cử hành các á bí tích, chủ tọa lễ nghi tang chế và an táng. Ðược phong chức để lo việc bác ái và việc quản trị, phó tế phải nhớ lời nhắn nhủ của Thánh Polycarpô: "Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người" 75.

Thực ra, trong nhiều nơi, vì kỷ luật hiện hành của Giáo Hội La tinh có thể làm trở ngại việc chu toàn những nhiệm vụ đó, những nhiệm vụ rất cần thiết cho đời sống Giáo Hội, nên trong tương lai, chức phó tế có thể được tái lập như một bậc riêng và vĩnh viễn thuộc phẩm trật. Các nhóm Giám Mục địa phương, dưới những hình thức khác nhau, với sự chấp thuận của chính Ðức Giáo Hoàng, có đủ thẩm quyền để xét xem có nên bổ nhiệm các phó tế ấy và bổ nhiệm ở đâu, để họ coi sóc các linh hồn. Với sự đồng ý của Ðức Giáo Hoàng, các Ngài có thể phong chức phó tế cho những người đàn ông đứng tuổi, dù đã kết hôn, cũng như cho các thanh niên có khả năng, nhưng các thanh niên này phải giữ vững luật độc thân. 39*

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

 

36* Số 27: Quyền cai quản.

Ðoạn này còn được Sắc Lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (số 16) bổ túc. Trong số đó, Công Ðồng xác định chi tiết những bổn phận mục vụ của người tông đồ, đặc biệt đối với linh mục, và cả với những tín hữu ly khai cũng như những người chưa chịu phép Thánh Tẩy. Công Ðồng đã giữ lại và lưu ý lời quả quyết này là: các Giám Mục là đại diện và thừa phái của Chúa Kitô chứ không phải đại diện Giáo Hoàng, vì lẽ các Ngài thi hành quyền năng riêng biệt của các Ngài, và việc gọi các Ngài là thủ lãnh phần dân các Ngài hướng dẫn, quả là điều xác đáng. Ở đây Công Ðồng cũng nhấn mạnh đến ý tưởng phục vụ: quyền bính Giám Mục không để thống trị; ngoài ra còn kín đáo ám chỉ tới trách nhiệm của Giám Mục đối với những người chưa thuộc về đoàn chiên duy nhất. Giám Mục không chỉ bận tâm riêng với tín hữu, nhưng có trách nhiệm đối với mọi người; ngay trong giáo phận, Ngài phải là một vị thừa sai. Câu sau cùng nhắc nhở cho tín hữu phải biết liên kết với Giám Mục của mình như Giáo Hội đã liên kết với Chúa Kitô và Chúa Kitô với Chúa Cha.

37* Tiểu mục 4: Những cộng tác viên của Giám Mục (các số 28-29).

Công Ðồng biên soạn và khai triển đoạn này trong những cuộc bàn cãi vào tháng 9 năm 1964. Về linh mục, số 29 còn được bổ túc và minh định qua Sắc Lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (các số 28-35). Công Ðồng chưa có thời giờ quảng diễn một khoa thần học về chức linh mục thừa tác, nên tạm thời chỉ nói sơ qua khi bàn về chức Giám Mục. Sự liên lạc giữa hai bên khiến Công Ðồng liệt kê được những quả quyết chính yếu trong những số này để kết thúc cho một chương khá dài, đòi nhiều công phu.

62 Xem T. Inhatiô tử đạo, Ad Ephes. 6,1: x.b. Funk I, trg 218.

63 Xem CÐ Trentô, khóa 23, De Sacr. ord., ch. 2: Dz 958 (1765) và đ. th. 6: Dz 966 (1776).

64 Xem Innocentiô I, Epist. ad Decentium: PL 20, 554A; Mansi 3, 1029; Dz 98 (215): "Linh mục tùy thuộc và hàng tư tế bậc thấp, nên không có quyền tư tế tối cao". T. Cyprianô, Epist. 61, 3: x.b. Hartel, trg 696.

65 Xem CÐ Trentô, n.v.t.: Dz 956-968 (1763-1778), và đặc biệt đ.th. 7: Dz 967 (1777). Piô XII, Tông hiến Sacramentum Ordinis: Dz 2301 (3857-61). )

66 Xem Innocentiô I, n.v.t. - T. Gregoriô Naz., Apol. II, 22: PG 35, 432 B. Dionysiô Giả, Eccl. Hier., 1,2: PG 3,372 D.

67 Xem CÐ Trentô, khóa 22: Dz 940 (1743). Piô XII, Tđ. Mediator Dei, 20-11-1947: AAS 39 (1947), trg 553; Dz 2300 (3850).

68 Xem CÐ Trentô, khóa 22: Dz 938 (1739-40) - CÐ Vat. II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosancium Concilium số 7 và 47: AAS 56 (1964), trg 100-113.

69 Xem Piô XII, Tđ. Mediator Dei, n.v.t., số 67.

70 Xem T. Cyprianô, Epist. 11,3: PL 4,242B; x.b. Hartel II, 2, trg 497.

71 Xem Pontificate Romanum, lễ truyền chức linh mục: lúc mặc áo lễ.

72 n.v.t.: kinh tiền tụng.

73 Xem T. Inhatiô Tử đạo, Philad. 4: x.b. Funk I, trg 266. T. Corneliô I, trong T. Cyprianô, Epist. 48, 2: Hartel III, 2, trg 610.

38* Số 28: Về Linh Mục.

Công Ðồng không muốn đề cập đến những vấn đề thuộc khoa chú giải do Tân Ước đặt ra, nhưng chỉ muốn xác định điều này: các linh mục, vì là những thừa tác viên cộng tác với Giám Mục, nên được tham dự vào quyền hành và sứ mệnh mà Chúa Kitô đã trao ban cho các Tông Ðồ.

- Tương quan giữa linh mục Chúa Kitô: tùy theo mức độ thừa tác vụ, linh mục tham dự vào nhiệm vụ Chúa Kitô là Vị Trung Gian duy nhất, nhiệm vụ được thi hành trong việc tế tự và trong công hội: thừa tác vụ của ngài là dâng Thánh Lễ, dẫn dắt đoàn chiên, dùng bí tích mà thánh hóa, rao giảng Lời Chúa.

- Tương quan giữa linh mục và Giám Mục: lặp lại hình thức linh mục đoàn ngày xưa, nghĩa là các linh mục tập trung quanh Giám Mục để cùng lãnh trách nhiệm chung là truyền bá Phúc Âm. Giám Mục phải sống tình cha con, còn linh mục phải vâng lời và tuân phục. Chức tư tế của linh mục tùy thuộc và tham dự vào chức tư tế của Giám Mục. Linh mục cộng tác vào công cuộc truyền bá Phúc Âm có tính cách tập đoàn.

- Tương quan giữa linh mục với nhau: Công Ðồng mời gọi các linh mục cộng tác với nhau về mặt thiêng liêng, mục vụ và cả trong những công việc trần thế.

- Tương quan giữa linh mục và tín hữu: linh mục quan tâm đến việc giúp đỡ các tín hữu trong Giáo Hội địa phương, nhưng cũng không quên lo cho những người còn ở ngoài Giáo Hội, và những Kitô hữu không còn sống đạo.

Ðể kết luận, Công Ðồng ước mong mọi linh mục phải nỗ lực duy trì và phát huy sự hiệp nhất với nhau và với Giám Mục, vì Phúc Âm và thế giới hôm nay đòi hỏi như thế.

74 Const. Eccl. Aegyptiacae III, 2: x.b. Funk, Didascalia II, trg 103. - Statuta Eccl. Ant. 37-41: Mansi 3,954.

75 T. Polycarpô, Ad Phil. 5,2: x.b. Funk I, trg 300: "Chúa Kitô tự hạ được gọi là Ðấng Phó Tế mọi người". Xem Didachê 15,1: n.v.t., trg 32. T. Inhatiô Tử đạo, Trall. 2,3: n.v.t., trg 242. Const. Apostolorum, 8,28,4 : x.b. Funk, Didascalia I, trg 530.

39* số 29: Về Phó Tế.

Bản văn công phu được lặp lại hầu như hoàn toàn trong kỳ họp thứ III của Công Ðồng, gồm hai phần:

- Nhiệm vụ của phó tế: Công Ðồng dè dặt khi nói đến bí tích tính của chức phó tế, vì còn một số người phân vân chưa quyết định, nên Công Ðồng không muốn làm cản trở cho công cuộc tìm hiểu thêm. Ðặc điểm của chức phó tế là phục vụ Giám Mục và linh mục đoàn. Phục vụ trong ba lãnh vực: phụng vụ, rao giảng lời Chúa và thực thi bác ái.

- Tái lập phó tế như một chức thường xuyên. Công Ðồng chỉ quả quyết là có thể tái lập ở những nơi mà nhu cầu mục vụ đòi hỏi.

Việc tái lập như thế có tính cách địa phương hơn là cho toàn thế giới, và do quyết định của hội đồng Giám Mục địa phương với sự chấp thuận của Giáo Hoàng. Về luật độc thân, phải phân biệt hai trường hợp: người đứng tuổi có thể đã lập gia đình, còn các thanh niên phải giữ luật độc thân. Bản phúc trình giải thích quyết định này như sau: lược đồ không chủ trương đòi các phó tế phải có gia đình, dù ở nơi nào cũng vậy, nhưng chỉ muốn dễ dãi đối với việc truyền chức phó tế cho người có gia đình khi xét ra cần thiết hay hữu ích.

 
VỀ MỤC LỤC
TÔN SƯ VÀ TRỌNG ĐẠO - ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐỒNG HÀNH

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

Những ngày này hàng triệu em học sinh lớp 12 vừa mới thi xong kỳ thi Tú Tài. Ngày xửa ngày xưa, nước ta cứ 3 năm lại có một kỳ thi Hương, nếu đậu cao thì gọi là Cử Nhân, thấp hơn thì gọi là Tú Tài. Rồi các Cử Nhân của các tỉnh lại tập họp về kinh đô để dự kỳ thi Hội. Đậu thi Hội thì được gọi là Tiến Sĩ. Các Tiến Sĩ lại được vào tận cung vua để thi tiếp kỳ thi Đình do chính vua ra đề, ba người đứng đầu kỳ thi này sẽ được gọi là Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, vinh vang ghê lắm mà cũng phải giỏi ghê lắm mới có thể lọt được vào đến đây.

Thời bao cấp theo chính thể CS, người ta bỏ luôn cách gọi Tú Tài, Cử Nhân, cho là... tàn dư của phong kiến, chỉ gọi là tốt nghiệp phổ thông. Thế rồi đến lúc nào chẳng biết, hình như cũng chỉ năm mười năm nay, người ta dùng lại các tên gọi cậu Tú, cô Cử, lại dùng lại các nghi thức ra trường, áo mũ xênh xang. Lại có cả những trò chơi lớn cho thiếu nhi mô phỏng thi Đình ngày xưa để tìm ra những chú bé cô bé Trạng Nguyên, trao giải của các nhà tài trợ quảng cáo tưng bừng.

Thế nhưng, bên dưới tất cả những lễ hội xum xuê, những thành tích lẫy lừng, dần dần thực chất ngành Giáo Dục mới lộ ra. Cả xã hội bị báo động lao xao, các nhà giáo tâm huyết lên tiếng, báo chí lập diễn đàn online. Ông lớn này, bà cán bộ kia nhận chức với thật nhiều tuyên bố và hứa hẹn, có lúc đã gây được niềm hy vọng nơi mọi người. Nhưng rồi thì người ta chỉ “nói không” với một vài tiêu cực chứ không thấy nói “có” được với những chuyển biến căn bản trong Giáo Dục. Coi như vô ích ! Những cái làm được chỉ là chuyện vụn vặt phụ thuộc, trong khi những cái đã và đang mất đi mới khủng khiếp !

Thật thương cho các bạn trẻ, rất trẻ, hiện tại là lứa tuổi 9X, trải qua những năm học thật đẹp với trường lớp, với thầy cô, với bè bạn, nhưng mức độ dung nạp, tích lũy, trang bị vốn liếng sống làm người, lương tri để hành xử, tài năng để cống hiến và tấm lòng để phục vụ cho đời thì lại bị thiếu trước hụt sau. Tài chưa đủ để thi thố với thế giới mà Tâm thì không biết theo chuẩn mực nào trong thiên hạ !?! Trách nhiệm này không chỉ do cha mẹ, thầy cô, mà do chính những người hoạch định chính sách Giáo Dục của cả nước đã gây “phá sản” lần hồi từ mấy chục năm qua.

Sau một thời gian dài trường học nào cũng treo toàn là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” [1]. Thế rồi đến một thời điểm cách đây khoảng hơn 10 năm, bỗng nhiên người ta thấy ví con người với cái cây, ví việc giáo dục với trồng cây, nghe thì hay nhưng mà thực tế không ổn. Ừ nhỉ, con người quý hơn cái cây nhiều, cây mà chăm sóc không tốt, bất quá nhổ đi, chặt đi, đốn đi không uổng phí bao nhiêu, chứ con người mà không được dạy dỗ cho tử tế thì nguy to !

Thế là người ta âm thầm họp bàn, lấy quyết nghị, rồi lẳng lặng đến đầu năm học cho treo lên đồng loạt ở các trường câu khẩu hiệu “Tôn sư trọng đạo” mà ngày xưa đã từng chửi bới lên án là phong kiến với lại hủ nho. Cũng khá rồi đấy, xem ra có thay đổi tư duy. Nhưng vẫn không ổn ! Nhiều người thức thời, kể cả các bạn trẻ sinh viên lẫn mấy cô mấy cậu học sinh lớp 12 đều bật lên một thắc mắc: Tôn sư nhưng biết lấy sư nào mà tôn đây ? Trọng đạo nhưng biết lấy đạo nào mà trọng bây giờ ? 

Những chuẩn mực đạo đức, những quy phạm lương tâm trong xã hội hiện nay biết tìm ở đâu ? Trong khi đó, quyền lực, danh vọng và lạc thú hưởng thụ, có thể gọi là một “tam giác vàng” quá hấp dẫn, được đồng tiền bảo kê nên lại càng thu hút tâm trí con người ta.

Các bạn trẻ thoạt đầu lòng sục sôi nhiệt huyết cống hiến và lý tưởng phục vụ, nhưng sau một thời gian ngắn phải đối diện với thực tế cuộc sống phũ phàng đến mức tàn nhẫn, không ít bạn trẻ đã nhắm mắt cho trượt dài theo đưa đẩy của dòng đời, tự an ủi mình đó là khôn ngoan, là thực tế, là “thời thế, thế thời phải thế”, không thể “quân tử Tàu” mãi được !

May quá, dù sao, chúng ta cũng còn bắt gặp được ở đây ở đó những tín hiệu vui. Chưa bao giờ chúng ta lại thấy nẩy sinh như “trăm hoa đua nở” nhiều nhóm bạn trẻ đến như thế. Hóa ra đến một lúc các mô hình Đoàn Đội Thanh Thiếu Niên CS không còn đáp ứng được nỗi khao khát sống, khao khát được phục vụ, được chia sẻ. Các bạn trẻ tự phát rủ nhau hình thành những đội nhóm, chỉ mươi người, mấy chục là tối đa, họp bàn tranh cãi rất người lớn, rồi đề ra được một chương trình hành động.

Chẳng cần chức tước, ban bệ, không cần hô khẩu hiệu, không cần ra nghị quyết, cũng chẳng cần báo cáo thành tích, phê và tự phê, chẳng màng đến bằng khen và huân chương vớ vẩn gì. Đơn giản các bạn trẻ có cái Tâm trong sáng chỉ cần được gặp gỡ nhau, được gặp gỡ những mảnh đời.

Mà của đáng tội, một khi nước ta chọn đường lối phát triển theo kinh tế thị trường theo kiểu Tư Bản Chủ Nghĩa nhưng lại theo định hướng chính trị theo Chủ Nghĩa Xã Hội, thì chính cái cơ chế bạc nhạc, nửa nạc nửa mỡ ấy, thay vì xóa bỏ “chế độ người bóc lột người” như vẫn luôn nêu cao như khẩu hiệu đấu tranh, thì bây giờ lại đang đào sâu hố cách biệt giàu nghèo trong xã hội, hình thành thêm một khối người nghèo thành thị bên cạnh khối người nghèo nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

Vậy là những nhóm nhỏ bạn trẻ nhiệt thành đầy thiện chí không bị... thất nghiệp ! Thường cứ vào Chúa Nhật, đáng ra có thể đi chat chit, đi câu cá, đi ăn kem, uống cà-phê, đi hát Karaoke, đi nhảy đầm, đi chơi games ở Diamond Plaza, đi nhậu bù khú với nhau, hoặc ít nhất cũng là nằm tưng tửng ở nhà nghe nhạc, xem phim, thế mà các bạn ấy lại rủ nhau, kéo nhau đến các Mái Ấm, đến các trường Mầm Non dành cho trẻ mồ côi, đến các Nhà Tình Thương, Nhà hưu Dưỡng nội ngoại thành, hoặc xa hơn, các bạn phóng Honda đến các trại phong, các trường khuyết tật ở các tỉnh lân cận, có khi còn lên đến tận vùng Tây Nguyên thăm những người anh em dân tộc thiểu số khốn cùng..

Có lần giúp Tĩnh Tâm cho một Nhóm bạn trẻ ở Vũng Tàu, chúng tôi có hỏi các bạn cần anh em nam nữ Tu Sĩ và Linh Mục ở những mặt nào, các bạn không cần phải nghĩ ngợi lâu lắc xa xôi gì, chỉ hội thảo sôi nổi một hồi rồi bạn “thủ lĩnh” ( leader ) mạnh dạn và thẳng thắn ngỏ ý: “Chúng con chỉ cần hai việc,đó là các cha ĐỊNH HƯỚNG và ĐỒNG HÀNH với anh em chúng con!”

Vậy đó, nghe thì đơn giản, có hai việc thôi ấy mà, ĐỊNH HƯỚNG và ĐỒNG HÀNH, nhưng là cả một trọng trách Giáo Dục thế hệ trẻ hôm nay đang kỳ vọng vào người lớn, cha mẹ, thầy cô, các vị Giám Mục. Linh Mục, các Tu Sĩ nam nữ.

Còn đối với các nhà lãnh đạo quốc gia xem ra cao quá, xa quá, mà cũng hứa hẹn nhiều quá rồi, giới trẻ chẳng màng đặt niềm hy vọng vào họ bao nhiêu nữa. Thế còn Hội Thánh chúng ta thì sao ? Chúng ta có một đáp trả thích đáng về mặt Giáo Dục cho các bạn trẻ hôm nay hay không ? Nếu chưa thì chí ít, xin cũng đừng để họ phải thất vọng !

Đúng là phải “Tôn Sư – Trọng Đạo”. Nhưng Sư nào đây ? Đạo nào đây ? Hãy ĐỊNH HƯỚNG cho các bạn trẻ trực chỉ con đường mang tên Giêsu, vốn là vị “Sư” cần được tôn, và hãy ĐỒNG HÀNH với họ trên chính con đường ấy – cái Đạo cần được trọng...  

Lm. QUANG UY, DCCT, Chúa Nhật          


[1] Nguyên văn câu của Quản Trọng ( 725 – 645 trước TC ) thời Xuân Thu bên Trung Hoa, trích từ sách Quản Tử:

“Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc – Kế một năm chi bằng trồng lúa.

Thập niên chi kế mạc như thụ mộc – Kế mười năm chi bằng trồng cây.

Chung thân niên chi kế mạc như thụ nhân – Kế trọn đời chi bằng trồng người.

Nhất thu nhất hoạch giả, cốc dã – Trồng một gặt một, ấy là lúa.

Nhất thu thập hoạch giả, mộc dã – Trồng một gặt mười, ấy là cây.

Nhất thu bách hoạch giả, nhân dã – Trồng một gặt trăm, ấy là người”

VỀ MỤC LỤC
Học Hỏi về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo (tiếp theo)

Bài 5 

IV. Trật Tự Xã Hội (118 - 177) 

41. Giáo huấn HTXH đề cập đến trật tự xã hội như thế nào? 

Điểm then chốt của giáo huấn về trật tự xã hội được hiểu như sau: “Mỗi cá nhân con người chính là nền tảng, nguyên nhân và cùng đích của mọi hình thức thể chế xã hội” (Mater et Magistra # 219). Trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội cũng vậy, phẩm giá và ơn gọi của mỗi con người cũng như tất cả phúc lợi xã hội cần được tôn trọng và phát triển. Vì con người là nguồn gốc, trung tâm và mục đích của mọi hình thức đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy, nền tảng và mục đích của trật tự xã hội chính là con người. Con người như là một chủ thể của tất cả các quyền mà không ai có thể tước đoạt hay ban tặng, vì những quyền này được gắn chặt với bản chất của mỗi cá nhân con người. “Không một quyền lực loài người nào có thể bóp nghẹt sự nhận thức con người là một nhân vị” (cf. World Day of Peace Message, 1988, # 1). 

42. Dựa vào tính chất nào để xây dựng nền tảng xã hội? 

“Một xã hội dân sự được xem là ổn định, trật tự, phúc lợi và tôn trọng phẩm giá con người, nếu xã hội đó được xây dựng trên sự thật. Như Tông đồ Phaolô cổ vũ: “Bởi thế, mỗi khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau” (Eph 4:25). Điều này sẽ thành tựu khi mỗi người nhận thức đầy đủ về quyền và bổn phận của họ và của người khác” (Pacem in Terris, # 35).  

43. Bằng cách nào để xây dựng một xã hội hiệp nhất?

Để xây dựng một xã hội hiệp nhất, ĐGH Gioan Phaolô II dạy rằng: “Trong tinh thần hiệp nhất và với khí cụ đối thoại, chúng ta cần nhận thức rằng: tôn trọng nhân vị nhau; tôn trọng những giá trị và văn hóa của người khác; tôn trọng quyền tự trị và tự quyết của người khác; có tầm nhìn vượt ra khỏi chính mình để hiểu và ủng hộ những phẩm chất tốt đẹp nơi những người khác; góp phần của chính mình trong tính hiệp nhất xã hội nhằm phát triển ý thức công bình; xây dựng một cấu trúc bảo đảm rằng tính hiệp nhất xã hội và đối thoại là hai đặc tính bất biến của thế giới loài người chúng ta” (World Day of Peace Message, 1986, # 5). 

44. Chúng ta cần sống tính hiệp nhất trong xã hội ra sao ?  

Việc thực thi sự hiệp nhất trong mỗi xã hội là có cơ sở nếu mỗi thành viên trong xã hội nhìn nhận nhau như những nhân vị. Đối với những ai có sự ảnh hưởng của mình trên những người khác, bởi vì họ có khả năng chia sẻ điều kiện vật chất và dịch vụ công ích nhiều hơn, thì họ cũng có trách nhiệm đối với những người nghèo yếu và sẵn sàng chia sẻ với người này những khả năng mình đang có. Về phần những người nghèo yếu, vì cùng mang một tinh thần hiệp nhất, họ không nên sống trong thái độ thụ động; dù đang khi đòi hỏi những quyền cơ bản, họ cũng nên thực thi những điều tốt đẹp vì mục đích chung. Đối với những người thuộc nhóm trung bình, họ không nên chỉ lo cho bản thân mình bằng một đời sống ích kỷ, nhưng cũng cần quan tâm những lợi ích cho người khác nữa (cf. Sollicitudo Rei Socialis, # 39). 

45. Làm thế nào để vượt qua thành kiến cá nhân nhằm xây dựng một thế giới hiệp nhất?

Để vượt qua thành kiến cá nhân đang lan rộng trong thế giới hôm nay, điều chúng ta cần lưu lý là phải có một quyết tâm cụ thể thực hiện sự hiệp nhất và bác ái. Trước hết, điều này bắt nguồn từ trong gia đình qua sự giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng và các thế hệ tiếp sau. Với ý nghĩa này, chúng ta gọi gia đình là cộng đoàn nơi việc làm và sự hiệp nhất được thể hiện (cf. Centesimus Annus, # 49). Bên cận đó, để tiến tới sự hiệp nhất, chúng ta không nên nhìn người khác, dân tộc khác hay quốc gia khác như là những công cụ có khả năng làm việc nhằm cho phép chúng ta khai thác và tận dụng với giá thấp sau đó lại bỏ đi. Nhưng chúng ta cần nhìn họ như là người anh em của chúng ta, người giúp đỡ chúng ta, người cùng chia sẻ với chúng ta trong bàn tiệc cuộc đời một cách ngang bằng như nhau mà mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi (cf. Sollicitudo Rei Socialis, # 39).

Br. Huynhquảng  còn tiếp

VỀ MỤC LỤC

LỜI NGUYỆN CỦA MỘT LINH MỤC CHIỀU CHÚA NHẬT

 

Lạy Chúa, chiều nay, con chỉ có một mình.  Những tiếng động trong nhà thờ lần lần tắt im.  Những người đi dự Chầu đã về hết.

Và con, con trở về nhà Xứ,

Một mình.

Con gặp những người đi dạo chơi về.

Con đi qua những rạp hát chật ních người ra vào.

Con thả bước dài theo các quán cà phê đầy những người có vẻ buồn chán đang gượng gạo kéo dài cuộc vui của ngày Chủ Nhật. 

Con gặp thấy nhiều trẻ con đang chơi trên các vỉa hè.  Những trẻ con, lạy Chúa, chúng là con trẻ của người ta, chớ không bao giờ là của con.

Này con đây, lạy Chúa, con chỉ có một mình,

Sự yên lặng làm con khó thở,

Sự cô quạnh đè nặng trên con.

Lạy Chúa, nay con được 34 tuổi,

Con có một thân thể như những người khác

Với những bàn tay gân guốc để làm việc,

Với một quả tim được dành để yêu thương,

Nhưng con đã phó thác cho Chúa hết.

Thật ra Chúa đang cần những thứ đó.

Con đã phó dâng tất cả cho Chúa rồi, nhưng lạy Chúa, dâng vậy thật đau khổ! 

Thật đau khổ khi con phải dâng thân xác cho Chúa, bởi vì thân xác đó nó muốn tự hiến cho một người khác.

Thật đau khổ khi phải yêu tất cả mọi người mà không được giữ riêng lại một người nào.

Thật đau khổ khi con bắt lấy một bàn tay mà con không được giữ luôn.

Thật đau khổ khi con gây được một mối tình mà rồi con phải trao mối tình đó cho Chúa.

Thật là đau khổ khi con không được sống cho mình chút nào mà phải hòan toàn sống cho kẻ khác.

Thật là đau khổ khi con phải đi với kẻ khác, mà không hề có một ai sẽ tới với con.

Thật là đau khổ để biết tội lỗi kẻ khác trong khi con không được từ chối việc tiếp đón và nâng đỡ họ.

Thật đau khổ khi con nhận biết những thầm kím của người ta mà không được tiết lộ cho ai.

Thật đau khổ khi thấy cả đời con phải lôi kéo kẻ khác mà không khi nào được ai thúc đẩy con, dầu trong chốc lát.

Thật đau khổ khi con phải luôn ra tay nâng đỡ những người yếu đuối mà con thì không bao giờ được nương dựa vào một người nào.

Này con đây, lạy Chúa!

Này thân xác con

Này trái tim con

Này linh hồn con.

Xin cho con được cao thượng đủ để nâng đỡ thế gian.

Xin cho con trong sạch đủ để ôm ấp thế gian mà không hề muốn giữ nó lại cho con.

Xin cho con được nên như một môi trường gặp gỡ, nhưng là một môi trường tạm thời; để con nên như con đường hướng đến với Chúa, chứ không phải là con đường cụt.

Lạy Chúa, chiều nay trong khi mọi sự đều yên lặng và trong khi trái tim con cảm thấy đau đớn vì khô quạnh.

Trong khi mọi người đang dày vò hồn con và con cảm thấy con bất lực để làm cho họ được thỏa mãn.

Trong khi bao nhiêu khốn nạn và tội lỗi của thế gian là cả một sức nặng đang đè trên vai con.

Thì con xin nói lại với Chúa là con sẵn sàng hy sinh luôn; không phải nói với một giọng cười diễu nhưng nói một cách chậm rãi, suy nghĩ và khiêm nhường.

Lạy Chúa, này con đang một mình trước mặt Chúa, trong sự yên lặng của buổi chiều nay!

Michel Quoist - Prières.

 
VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC LÀ NHỊP CẦU giữa CON NGƯỜI và THIÊN CHÚA

 

Kinh nghiệm thực tế cho thấy con người sống bằng cơm bánh, nhờ có công ăn việc làm, có tiền bạc. Khó có một cuộc sống xứng đáng, ấm no hạnh phúc, nếu thiếu những yếu tố cần thiết đó. Nhưng con người không dừng lại ở đó, vì nếu chỉ có như vậy, thì tầm thường quá! Mọi sự đều qua đi, người giàu cũng như người nghèo rồi cũng chết.

Con người sinh ra làm người để đi xa hơn, lên cao hơn. Con người sinh ra để tham gia thế giới thần linh, vì được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa. Con người chỉ hạnh phúc thật sự, khi đạt tới mục đích cuối cùng đó. Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ, có xã hội tính, để con người cùng nhau sống hạnh phúc, cùng nhau đạt tới mục đích của đời mình.

Nhưng trong thực tế, tội lỗi đã làm cho con người bị mất gốc, và mất cả hướng đi. Con người không còn biết mình bởi đâu và đi về đâu, nên chỉ loay hoay với cuộc sống trần gian. Làm việc, rồi hưởng thụ; hưởng thụ rồi làm việc. Một thiểu số may mắn làm ít hưởng nhiều, người nghèo thì làm nhiều hưởng ít. Vì lý do đó, con người chưa thể hiện được bản chất của mình, chưa làm người được cách trọn vẹn. Nhiều người vẫn thấy thiếu một điều gì đó mà họ rất mong mỏi và rất cần, dù không biết rõ đó là điều gì. Theo niềm tin kitô giáo, thì đó là sự sống viên mãn, sự sống thần linh mà Chúa Giêsu mang đến cho con người.

Chúa Giêsu đã làm người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống con người, ngoại trừ tội lỗi. Người đã chịu tất cả những nỗi đắng cay của cuộc đời, đã phải đối diện với những kẻ thù hung ác nhất, đã chịu sỉ nhục, vu oan, chịu những cực hình ghê gớm nhất. Người đã bị phản bội, bị từ khước, bị bỏ rơi và chết nhục nhã như một người tử tội. Không ai có thể tưởng tượng nỗi những đau khổ nội tâm của Chúa Giêsu khi Chúa nhìn thấy sự dữ, thần dữ chế ngự lòng người, thấy cái ác thống trị khắp nơi. Người đã lớn tiếng và rơi lệ, dâng lên cho Chúa Cha những lời cầu xin và khẩn nguyện (x. Bài đọc II). Người đã cầu khẩn cho nhân loại, vì đã được Chúa Cha đặt làm Thượng Tế, làm nhịp cầu giữa thế giới thần linh và trần gian.

Người đã hiến mình làm của lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa Cha, và đã được nhậm lời. Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết, mang lại niềm hy vọng cho loài người chúng ta. Quả thật Chúa Giêsu Phục Sinh mang đến sự sống viên mãn cho nhân loại; đó chính là Thần Khí Phục Sinh của Người, mà biểu tượng là Hơi Thở. Người đã hiện ra cho các tông đồ và đã trao sứ vụ của Người cho các ông: như Cha đã sai Thầy, Thầy sai các con! Người cũng đã ban Thánh Thần cho các ông. Thật là kỳ diệu vì Chúa Thánh Thần vừa là một ngôi vị Thiên Chúa, vừa là Tình Yêu của Thiên Chúa, là Sự Sống mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận trong sự Phục Sinh và ban lại cho chúng ta. Chúa Thánh Thần cũng là ơn cứu độ, là ơn tha tội mà Chúa Giêsu đã ban cho nhân loại trong Giáo hội và nhờ Giáo hội.

Các con thân mến, làm linh mục là để thông phần vào sứ vụ tông đồ của Giáo hội, tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, làm Nhịp Cầu giữa Trời và Đất, giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một sứ mạng rất tế nhị, khó khăn, nhưng rất lý thú đối với những người được kêu gọi. Thiết lập tương giao giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau là điều chính yếu của sứ mạng linh mục. Linh mục giúp cho con người tìm lại được cội nguồn của mình là Thiên Chúa, giúp cho con người định hướng lại cuộc đời.

Các con phải biết rõ cội nguồn của mình, không ngừng tiếp xúc với cội nguồn là Thiên Chúa, để có thể nói cho người khác biết về Thiên Chúa. Các con cũng phải biết rõ về con người, thì mới có thể thuyết phục con người. Linh mục phải là người có khả năng mở đường cho các mối tương giao nhân loại. Gần gũi với Thiên Chúa, gần gũi với mọi người, đó là một linh mục lý tưởng. Gần gũi với Thiên Chúa, với Chúa Kitô Phục Sinh, các con sẽ được đầy tràn Thần Khí của Chúa, sức mạnh của Chúa, tình yêu của Chúa, để lôi kéo con người đi lên cùng Thiên Chúa. Gần gũi với con người, thân thiện với con người, thấm đẫm tình người, các con mới thu hút được nhiều người.

Nếu gần gũi với con người mà các con xao lãng tiếp xúc với Thiên Chúa, thì sẽ là một đại hoạ, vì các con sẽ nói những điều mình không biết, kết cuộc là một mớ lý thuyết trừu tượng xa rời thực tế, kèm theo những ràng buộc về luân lý, mà người đời không còn thấy ý nghĩa và không còn muốn theo nữa. Lịch sử Giáo hội cho thấy những linh mục thánh thiện, như cha sở họ Ars, cha thánh Gioan Bosco, càng gần Chúa bao nhiêu, thì càng gần gũi với con người bấy nhiêu. Thế giới hôm nay càng ngày càng bị tục hóa, rất cần tới những con người như thế, những con người thực sự có khả năng làm nhịp cầu giữa Thần linh và trần thế.

Cha hết lòng ước mong các con sẽ là nhịp cầu an toàn giữa Thiên Chúa và Dân Người.

+ Gm. Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

VỀ MỤC LỤC

XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ

  

Phúc Âm: Mt 7, 21-27

Đã bao năm tôi xây nhà trên cát

Tôi nghĩ rằng cát vẫn vững cho tôi

Đến một ngày mưa giông gió, cát trôi

Mái bị tốc, những vách nhà xiêu đổ!

 

Tôi ân hận vì lâm vào cảnh khổ

Tôi hoang mang không biết phải làm sao?

Bên tai tôi bỗng có tiếng thì thào:

“Muốn chắc chắn, con xây nhà trên đá!”

 

Lời Chúa nhủ theo đường Thập tự giá

Là xây nhà trên khối  đá hoa cương

Lời Phúc âm Chúa để sẵn làm giường

Tôi học hỏi và tuân theo lời Chúa!

 

Yêu thương người, những cảnh đời nhầy nhụa

Đói cho ăn, người đau khổ ủi an

Giữ công bình, bác ái, chẳng tham lam

Kính mến Chúa cho hết lòng, hết trí!

 

Ngôi nhà này kiên cố  và kỳ vĩ

Chúa đứng làm một viên đá góc tường

Gieo hân hoan và Công Lý, Tình thương

Trong  nhà ấy suốt đời tôi đứng vững!

 

Kính lậy Chúa! Con cố công xây dựng

Một ngôi nhà trên khối đá hoa cương

Xin cho con biết chuyển tải Tình thương

của Chúa đến muôn người, muôn thụ tạo!

1-6-2008

Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC
 

VỀ MỤC LỤC
SỰ BẤT HẠNH CỦA CON SÒ  

 

Những mẩu chuyện chiêm niệm trong tác phẩm NHƯ LỜI CẦU KINH

Lm. ANTHONY DE MELLO   Nhà văn Hương Vĩnh chuyển ngữ

40.- SỰ BẤT HẠNH CỦA CON SÒ  

Một con sò thấy một hạt ngọc trai long ra, rơi xuống khe đá dưới đáy biển. Sau khi cố gắng hết sức nó tìm cách nhặt hạt ngọc trai lên và để ngay bên cạnh, trên một chiếc lá.

Con sò biết người ta tìm kiếm ngọc trai, nên nghĩ bụng: "Hạt ngọc trai này sẽ quyến rũ họ nên họ sẽ nhặt hạt ngọc trai và để mình yên thân." 

Tuy nhiên, khi một người thợ lặn kiếm ngọc trai xuất hiện, đôi mắt ông ta quen nhìn vào các con sò, chứ không phải hạt ngọc trai nằm trên các tàu lá. 

Vì vậy, người đó chỉ nắm lấy con sò dù không có hạt ngọc trai và để hạt ngọc trai thật lăn xuống khe đá. 

*** 

Bạn biết thật chính xác bạn cần nhìn ở đâu.

Đó là lý do tại sao bạn thất bại trong việc tìm gặp Thiên Chúa

 

41.- NHẬN DIỆN MẸ MÌNH  

Một người đàn bà vào ngân hàng, đưa một tấm chi phiếu cho người thâu ngân để đổi sang tiền mặt cho bà. 

Theo đúng chính sách của ngân hàng, người thâu ngân hỏi bà giấy tờ chứng minh.

Người đàn bà há hốc miệng kinh ngạc. Cuối cùng, bà mới kiềm chế được để nói: "Nhưng, Danh (Jonathan) ơi, mẹ là mẹ con mà!"

***

Nếu bạn thấy chuyện này buồn cười,

làm thế nào mà bạn đã thất bại

không nhận ra Đấng Cứu Thế?

 

42.- CON CHÓ ĐI TRÊN MẶT NƯỚC

Một người dẫn con chó săn mới mua đi săn thử. Ngay sau đó, ông ta bắn hạ một con vịt rơi xuống hồ. Con chó liền đi trên mặt nước, nhặt con vịt lên và mang về cho chủ. 

Ông ta rất đỗi ngạc nhiên! Ổng bắn hạ một con vịt khác. Lại một lần nữa, trong khi ông ta dụi mắt nghi ngờ thì con chó đi trên mặt nước và mang con vịt về. 

Điều ông đã thấy thật khó tin, ông liền kêu người hàng xóm cùng đi săn vào ngày hôm sau. Lại một lần nữa, mỗi khi ông ta hay người hàng xóm bắn trúng một con chim, con chó đều đi trên mặt nước và mang con chim về. Ông không nói năng gì. Bạn ông cũng thế. Cuối cùng, không thể nén lâu được nữa, ông ta buột miệng nói ra: "Bạn có nhận thấy điều gì lạ thường nơi con chó đó không?" 

Người hàng xóm dụi cằm, nghĩ ngợi và cuối cùng nói: "Ừ nhỉ, để tôi suy nghĩ một tí…  Tôi biết rồi! Cái con khốn nạn đó không biết lội!”  

***

Không phải là cuộc sống dường như không có nhiều chuyện lạ.

Nhiều hơn thế nữa: cuộc sống đầy sự nhiệm lạ

và bất cứ ai thôi xem thường nó thì sẽ nhận thấy tức khắc.

VỀ MỤC LỤC
ISRAEL LIỆU CÓ THỂ SỐNG CÒN ĐƯỢC KHÔNG?

 

Israel là một nước rất nhỏ so với diện tích thế giới, nhưng nó lại là mục tiêu tấn công của rất nhiều kẻ thù. Một vài nước lại công khai đe dọa sẽ quét sạch Israel khỏi mặt địa cầu. Tuy còn non trẻ, mới tái lập quốc được 50 năm, nhưng Israel cho đến giờ vẫn tồn tại, có thể nói, một cách rất oai hùng.

 

Chúng ta thử tìm hiểu xem Israel còn sống được bao lâu nữa theo như những lời ghi chép trong Kinh Thánh?

________________________

 

 

Adolf Hitler đã hoành hành phá hoại phần lớn Âu Châu từ cuối thập niên 1930 cho đến 1945, nhưng khi thăm dò ý kiến dân Âu Châu xem nước nào trên thế giới hiện nay bị đe dọa hòa bình thế giới nhiều nhất thì có tới 60 % người trả lời nói là Israel.

 

Hiện nay vẫn còn rất nhiều nước, ngay cả những nước đã từng bị Đức Quốc Xã chiếm đóng phá hoại cũng từ chối, không chấp nhận Israel là một quốc gia hợp pháp. Chúng ta có thể tìm thấy bằng cớ rất dễ dàng trên báo chí, nơi hội nghị, những lời tuyên bố kêu gọi hủy diệt Israel bởi những nước Ả Rập thù nghịch của Do Thái.

 

Tổng Thống Mahmound Ahmadinejad của Iran có lẽ là người lớn tiếng nhất chống đối Israel. Hãy nghe ông tuyên bố: “Israel phải bị quét sạch khỏi bản đồ thế giới” (2005). “Chế độ / chủ nghĩa Zion là chủ nghĩa đầu tiên cần phải hủy giệt….Israel như một cây khô đã mục nát, chỉ cần một cơn bão là bị tiêu tan” (2006). “Hoa Kỳ và chế độ Zion của Israel chẳng bao lâu nữa sẽ phải chết” (2007), và “những cường quyền trên thế giới đã tạo ra con vi trùng dơ dáy là cái chế độ Zion này, nó đang bám vào những quốc gia ở trong vùng như một con hoang thú” (2008).

 

ISRAEL CÓ THỂ TỒN TẠI ĐƯỢC SAU TRẬN CHIẾN NGUYÊN TỬ KHÔNG?

 

Ngày 14-12-2001, trong một bài nói truyện, ông Hashemi Rafsanjana, lúc đó còn là tổng thống Iran, một vị lãnh đạo Hồi Giáo được coi là ôn hòa, cũng đã công khai đe dọa tấn công Israel bằng nguyên tử: “ Nếu một ngày nào đó thế giới Hồi Giáo có trang bị khí giới hạch nhân như Israel hiện có bây giờ….thì chỉ cần một trái bom nguyên tử là có thể quét sạch mọi sự ở Israel. Tuy nhiên nếu bị đánh trả thì thế giới Hồi giáo sẽ chỉ bị tổn thương  thôi,  không thể bị tận diệt được”.

 

Suzanne Fields, một nhà báo Hoa Kỳ, đã tóm ý của Rafsanjani như sau: “Nếu có một cuộc chiến nguyên tử qua lại giữa Iran và Israel thì Iran chỉ mất 15 triệu người, số người hy sinh này quá nhỏ đối với cả tỷ người Hồi Giáo trên khắp thế giới để đánh đổi 5 triệu người Do Thái Israel”. (Confronting the New Anti-Semitism,” The Washington Times, July 25, 2004).

 

Nói cách khác, ông ta tin rằng hy sinh 15 triệu người Hồi Giáo là một điều rất xứng đáng để đánh đổi và quét sạch 5 triệu người Do Thái ở Israel khỏi mặt địa cầu. Lúc đó Hồi Giáo còn cả tỷ người trên khắp thế giới, nhưng Do Thái chỉ còn ít người sống sót ở những quốc gia khác. Lúc đó không còn nước Israel nữa.

 

Thật chỉ những kẻ có máu lạnh mới dám nghĩ và lý luận tính toán như vậy. Mà đúng ra chỉ một mình Israel là nước không thể chịu đựng nổi một loại chiến tranh hạch nhân như thế. Cuộc chiến như vậy dĩ nhiên cũng làm tổn thương Iran, nhưng thế giới Ả Rập không thể bị hủy diệt hoàn toàn được. Trái lại Israel thì không thể sống sót / tồn tại được.

 

Nếu một cuộc chiến như vậy xẩy ra, chỉ về mặt địa dư, thì giữa Iran và Israel đã có một bất cân xứng quá lớn: 80 so với 1. Đây là một yếu tố rất quan trọng: Diện tích Israel thì quá nhỏ và ngắn so với một diện địa rộng mênh mông của các nước Ả Rập; tổng cộng lại thì diện tích các nước Ả Rập lớn hơn Israel 650 lần.

 

Nói cho cùng ra chỉ cần một hoặc hai trái bom nguyên tử là Israel trở thành bình địa, không một sinh vật nào có thể sống sót, tất cả đều bị hủy diệt cho đến cả nhiều thế hệ về sau. Thật là một thảm họa vô lương không thể nào tưởng tượng được đã xẩy ra trên thế giới, đánh vào một quốc gia đã đóng góp cho thế giới biết bao nhiêu là công sức về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nhân bản !

 

Đó là một tư tưởng kinh tởm mong muốn một thế giới không có Israel. Tuy nhiên đó chính là điều mà nhiều người trong số những kẻ thù của Israel dòng dã trong suốt chiều dài lịch sử đã cố công nhắm tới để đạt cho được. Chúng ta hãy nghe bài ca kêu nài cầu khẩn lên Thiên Chúa của nhạc trưởng Asaph của vua David được viết ra từ 3000 năm về trước:

 

                       “Lạy Thiên Chúa! Xin đừng yên lặng nữa,

                       “Xin hãy ra tay, đừng làm thinh nữa, lạy Chúa!

                       “Vì kìa kẻ thù Chúa đang gào thét,

                       “Những kẻ ghét thù Chúa đang hung hăng,

                       “Chúng âm mưu bàn kế hại dân Người…”

 

Chúng nói:“Nào, hãy đến, hãy trừ diệt dân tộc chúng đi

                  Để cái tên Israel chẳng còn ai nhớ đến” (Ca Vịnh 83: 1-4)

 

Kinh Thánh quả đã diễn tả đúng mục tiêu và tình trạng của thế giới ngày nay.

 

Chỉ ít câu như vậy cũng đủ diễn tả bản chất hung hãn và tàn bạo của kẻ thù đang bày binh bố trận chống lại Israel.  Đối chiếu với lịch sử hiện tại đang xẩy ra, những ca vịnh này cho thấy những quốc gia láng giềng đều là kẻ thù của Israel: “ Chúng âm mưu bàn kế với nhau để hãm hại Người” (câu 5).

 

Sau trận chiến ở kinh đào Suez năm 1956, một Liên Hiệp Cộng Hòa Thống Nhất Ả Rập giữa Ai Cập và Syria đã được thành lập, nhưng cũng không tồn tại được bao lâu. Hiện nay thì lại có một Liên Hiệp những nước Hồi Giáo thù nghịch đang bao vây chung quanh Israel?

 

Câu 6 và 7 trong ca vịnh 83 cho biết tên cũ xa xưa của những dân tộc láng giềng của Israel. Rõ ràng là Israel luôn luôn bị quấy phá, hãm hại bởi những quốc gia láng giềng.

 

NHỮNG ÁP LỰC ĐÈ LÊN ISRAEL

 

Quốc gia Israel đang ngày đêm  phải cố gắng bảo tồn sự hiện diện của mình trước những quấy phá bởi những lực lượng thù nghịch Ả Rập dưới muôn hình vạn dạng khủng bố và gần đây thì liên tục lãnh những trái rocket và đại pháo bắn vào miền Nam, bây giờ lại bắn  đến tận thành phố duyên hải Ashkelon nằm giữa Gaza Strip và Tel Aviv.

 

Nhóm khủng bố Hamas hiện nay đang kiểm soát Gaza thì dĩ nhiên phải chịu trách nhiệm về những trận mưa rocket bắn vào Israel. Đây là một phong trào kháng chiến Hồi Giáo được thành lập năm 1987, rất “nổi danh” về ôm bom tự sát. Chủ trương của Hamas đã nêu rõ ràng là: “Không có giải pháp cho vấn đề Palestine trừ phi nó được giải quyết bởi thánh chiến / Jihad” và “Israel sẽ hiện diện và sẽ tiếp tục hiện diện cho đến khi Hồi Giáo sẽ tận diệt nó”.  Rõ ràng là Hamas đã thề nguyện tiêu diệt Israel cho bằng được.

 

Sử gia Anh Martin Gilbert đã tóm lược những khó khăn mà Israel gặp phải từ ngày tái lập quốc: “Cộng đồng Israel đã và đang phải đối diện với đủ thứ áp lực chồng chất đến từ mọi quốc gia, một thứ áp lực liên tục và nặng nề về di dân; đã phải chịu đựng năm cuộc chiến tranh; những pha tấn công bất ngờ và tàn ác của kẻ thù khủng bố, và gần đây nhất lại có trò ôm bom tự sát; luôn luôn bị mặc cảm cô lập ám ảnh và nỗi khốn khổ của một quốc gia nhỏ bé, mỗi thế hệ đều có người thân yêu ra đi vì chiến tranh, chết vì khủng bố tấn công”.

 

“ Israel là quốc gia duy nhất không phải là chỉ trong ba thập niên đầu từ khi lập quốc đã bị bao vây bởi những kẻ tử thù, mà còn là một quốc gia, mặc dù chiến thắng oai hùng trận chiến năm 1967, nhưng vẫn phải chia đất cho những dân tộc khác, cho chính kẻ thù của mình” (Israel: A History, 1999, p.xxi).

 

Israel còn là một quốc gia mà người dân vẫn còn bị ám ảnh bởi những quá khứ kinh hoàng của những lò sát sinh với sáu triệu người Do Thái đã bị giết thảm bởi Đức Quốc Xã. Nhân dân Do Thái của quốc gia này vẫn ngày đêm phải chứng kiến đồng bào mình cả nam lẫn nữ cũng như con cháu họ chưa được diễm phúc nhìn ánh sáng mặt trời đã phải ra đi không trở lại cùng với biết bao tài năng và nguồn lực có thể cống hiến cho quốc gia đất nước họ trở thành phồn vinh, dân tộc họ giàu sang hạnh phúc.

 

Đâu có phải tại lỗi của họ mà họ cũng phải chịu cảnh kỳ thị ghét bỏ tàn ác cùng cực nhất của thế kỷ 20 này. Sáu triệu cây (the “Forest of Martyrs / Rừng Tử Đạo”) đã được trồng lại trên những ngọn đồi ở Judea để đặc biệt tưởng nhớ đến những nạn nhân của trại tập trung và lò sát sinh. Nhưng sự thù nghịch của Nazi Đức Quốc Xã (1933-1945) thời đệ III đế quốc (Đức) lại được tiếp nối bởi khối Ả Rập và Hồi Giáo thù hận cũng ác độc kinh hồn không kém.

 

Barbara Tuchman, một sử gia Hoa Kỳ cận đại đã viết: “ Ả Rập là một dân tộc có vẻ duyên dáng, hấp dẫn, tính tình thân thiện và lịch thiệp đối với khách lạ, con người có tư cách lại có tính khôi hài. Nhưng đứng trước vấn đề Israel thì họ lại tỏ ra hoàn toàn  ngờ vực nghi kỵ. Hình thể quốc gia Israel không thấy hiện diện trên những bản đồ của dân Ả Rập” (Practicing History, 1981, p.128).

 

Israel đã và đang phải đương đầu với nhiều cuộc chiến để sống còn với những quốc gia Ả Rập ở chung quanh kể từ ngày lập quốc từ năm 1948 đến nay. Ngày nay quốc gia nhỏ bé này vẫn còn phải thường xuyên chống đỡ những cuộc khủng bố rất tàn nhẫn do phong trào  Hez-bollah ở Lebanon và Hamas ở Gaza.

 

Tuy nhiên Israel vẫn tiếp tục sống mạnh và phát triển vượt bực.

 

NHỮNG LỢI ĐIỂM CỦA ISRAEL

 

Bàn về Israel thì không nên chỉ có nói một phía. Barbara Tuchman đã nhận xét về lịch sử Israel như sau: “Vì hàng ngày phải gánh chịu biết bao nhiêu là bất ổn xáo trộn, Israel đã quyết tâm muôn người như một luôn luôn tâm niệm điều duy nhất là SỐNG CÒN. Họ luôn luôn bị truy nã  theo đuổi mặc dù bị lưu đầy khắp bốn phương trời, nhưng vẫn quyết tâm mong ngày trở về xum họp làm thành một quốc gia độc lập góp mặt với thế giới, trên cùng một mảnh đất quê hương của cha ông từ ngàn xưa, với cùng một danh xưng (mặc dù tên Judah không còn được chính xác cho lắm), với cùng một tôn giáo, cùng một ngôn ngữ mà họ đã có từ ba ngàn năm trước.

 

Họ đã ý thức quyết tâm phải hoàn thành mệnh sử. Họ biết rằng bây giờ là lúc không thể lẩn trốn mà phải chịu đựng” (p.134) It is conscious of fulfilling destiny. It knows it must not go under now, that it must endure. Thực vậy, Thiên Chúa đã có một mục đích rất vĩ đại về một tân quốc gia Israel là để hoàn thành / ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh Thánh về những ngày tận cùng của thế giới.

 

Martin Gilbert đã nhận xét: “Mặc dù phải đối diện với quá nhiều bất trắc và xáo trộn, Israel vẫn quyết tâm giữ vững ý chí là phải thành công và hưng thịnh để bảo tồn cuộc sống hàng ngày hùng tráng và đầy đủ, để đánh tan những chỉ trích nhận xét đến từ cả bên ngoài lẫn bên trong cho rằng những khó khăn đó là không thể giải quyết được” (tr. xiii).

 

Chính quyền Hoa Kỳ vẫn luôn luôn yểm trợ Israel trong suốt 60 năm lịch sử lập quốc. Nguyên Bộ Trưởng Giáo Dục Hoa Kỳ William Benett đã viết: “Chúng ta ủng hộ Israel bởi vì Israel là ngọn hải đăng của Tự Do và Hy Vọng cho thế giới nói chung, và còn có một ý nghĩa rất quan trọng đối với Trung Đông…..Israel đã giữ vững niềm tin và lời hứa khi lập quốc vào năm 1948, một lịch sử lập quốc giống Hoa Kỳ hơn bất cứ một quốc gia nào khác trên thế giới” ( “Why I Stand With Israel”, Alan  Dershowitz, editor, What Israel Means to Me, 2006, tr. 39).

 

Thủ Tướng đầu tiên của Israel khi mới lập quốc là David Ben-Gurion (1886-1973) đã gọi dân Israel là “dân tộc đầy tài năng”.  Nhưng thế nào là Tài Năng? Shulamit Aloni, phát ngôn viên về nhân quyền của Israel, cựu nghị sĩ Israel (Knesset) đã nói về cái Tài Năng đó như là một kho tàng về Luân Lý, Kiến thức, Văn hóa, Nghệ thuật, Khoa hoc, Văn chương, Cởi mở, Lắng nghe và Kính trọng tất cả mọi người nam cũng như nữ, cả trẻ nít là những con người được sinh ra tự do và được cấu tạo giống như hình ảnh của Thiên Chúa” (tr. 23).

 

NHỮNG KHÓ KHĂN TRỞ NGẠI CỦA ISRAEL VỀ ĐỊA DƯ

 

Bennett đã đưa ra một khẳng định có giá trị và khá chính xác  “Chúng ta không thể không để ý đến vấn đề là nếu Israel thua cuộc chiến khủng bố thì Israel sẽ không thể tồn tại đươc” (tr.41).

 

Tuy nhiên không phải tất cả mọi kẻ thù đều là những tên chuyên môn rình rập tấn công bất ngờ bằng quân sự. Chỉ có vấn đề đất đai, vị trí và kích thước của Israel là tối ư quan trọng mà các nhà lãnh đạo Israel đang  ưu tư rất nhiều. Cả về cái căn tính Do Thái cũng bị đe dọa ở ngay trong chính quốc gia họ.

 

Israel Harel, sáng lập viên Hội Đồng của Cộng Đồng Do Thái ở Judea cũng đã viết trên tờ Ha’aretz, một tuần báo tiếng Do Thái rất đông độc giả nói về sự đe dọa đó: “….Ở chính trong nội địa Israel cũng có một đám thiểu số khá đông là dân Ả Rập, chừng 20% tổng số dân số, khoảng 30% những người chỉ học tới lớp 1 tiểu học, cũng thù ghét giống Do Thái, và đôi khi thù ghét ngay cả chính sự hiện hữu của Israel là quốc gia của người Do Thái. Đám thiểu số này vẫn nhận mình là một phần của dân tộc Palestine. Đa số dân Ả Rập hiện sinh sống tại Israel vẫn xác nhận mình là giống Ả Rập, cùng với dân tộc của họ đang chiến đấu một cuộc chiến khủng bố tàn bạo không hạn chế chống lại Israel” (“The Image and Significance of Contemporary Zionism,” Jewish Quarterly, Winter 2007, tr. 52).

 

David Ben-Gurion, một nhà ái quốc có lẽ vĩ đại nhất của Israel hiện đại cũng nhấn mạnh đến cái căn tính Do Thái ở trên phần đất tổ. Ông đã nói tại buổi họp của quốc hội đảng Do Thái Zionism lần thứ XX  ở Zurich, Thụy Sỹ năm 1937 là: “ Không một người Do Thái nào có quyền chịu thua bỏ cuộc việc thành lập một quốc gia Do Thái trên phần đất tổ của mình. Không một cá nhân, một đoàn thể Do Thái nào, ngay cả toàn thể dân tộc Do Thái hiện đang sống còn này cũng không có quyền nhân nhượng bất cứ một phần đất nhỏ nào của đất tổ” (trích bởi Harel, tr.56).

 

Tuy nhiên Mortimer Zuckerman, chủ bút báo US News and World Report đã cho ta biết “Chính Yasser Arafat đã tuyên bố rằng tất cả phần đất Palestine trong đó gồm tất cả đất đai hiện Israel đang nắm giữ đều là ‘đất thánh’, tức là gia sản của Hồi Giáo bất khả phân chia và không thể vất bỏ đí được” (“Denial and Hope in the Mideast,” Oct.8,2007).

 

Vậy thì liệu chúng ta có thể nắm được hết ý nghĩa của những sự tranh chấp đất đai này cùng với những hậu quả có tính cách quyết định về lịch sử ở hiện tại và tương lai không?

 

Nhà báo Melanie Phillips ở Luân Đôn đã viết như sau: “Trước thời kỳ xẩy ra vụ lò sát sinh, thế giới đã quyết định là dân Do Thái phải trở về quê cha đất tổ của mình ở Palestine -gồm phần đất bây giờ thuộc Israel, Jordan, West Bank và Gaza-  bởi vì chủ quyền của họ trên những phần đất này đã quá rõ ràng.  Điều đó không phải chỉ dựa vào những lời hứa đã ghi trong kinh thánh, mà vì nó đã là quốc gia của người Do Thái cả hàng trăm năm rồi, nhiều thế kỷ trước khi có sự hiện diện của Hồi Giáo” (The Jewish Chronicle, Nov.11, 2007).

 

Nhưng nhiều nhà quan sát Âu Châu lại muốn quốc gia Israel vứt bỏ cái căn tính Do Thái của mình đi. Chẳng hạn, theo như bà Melanie Phillips thì “Đa số dân chúng Anh không còn tin rằng dân Do Thái có quyền đòi lại phần đất đó”. Theo cái nhìn của bà thì những ai còn tin tưởng như vậy thì “cần phải điều chỉnh lại” (ibid).

 

Nhưng người ta tự hỏi dù đã phải nhượng một phần đất quê hương như vậy, liệu Israel có thể có được một nền hòa bình thực sự với những nước láng giềng hay không?

 

NHƯỜNG ĐẤT VÌ HÒA BÌNH

 

Những nhà lập quốc đầu tiên của Israel như David Ben-Gurion và Levi Eshkol tất cả đều bắt đầu từ quan niệm đó.  Một nhà tân trí thức Israel đã đưa ra tư tưởng là phải chứng tỏ cam kết ước muốn làm bất cứ điều gì cần thiết để kiến tạo hòa bình. Nhường đất vì Hòa Bình đã trở thành một khẩu hiệu mới. Từ bỏ Gaza xem ra là một ý tưởng rất hay. Nhưng khi một chính thể được thiết lập gọi là dân chủ ở Gaza thì đồng thời lại đẻ ra phong trào kháng chiến Hamas, và bắt đầu từ đó liên tục mưa pháo rockets vào dân Israel ở vùng biên giới phía Nam của Israel.

 

Yossi Klein Halevi, một hội viên kỳ cựu của trung tâm Shalem ở Jerusalem đã viết trên tờ Los Angeles Times rằng phong trào (Intifada 1987-19920) Palestine Ả Rập ở Gaza, West Bank nổi lên phản đối Israel chiếm đất của họ đã khiến “một khối dân Israel cảm thấy mình đã làm quá đáng nên sẵn sàng chấp nhận bất cứ nguy hiểm nào miễn là có được hòa bình”. Việc này dẫn đến tình trạng là “đa số dân Israel nghĩ đến chuyện nhượng bộ mà trước kia không bao giờ có ai dám nghĩ đến là rút lui ra khỏi West Bank và Gaza đồng thời còn muốn phân chia cả Jerusalem nữa” (“The End of the Guilty Israelis”, March 2, 2008).

 

Thế là vào cuối năm 2005 Israel rút lui ra khỏi Gaza Strip đã chiếm được từ tay Ai Cập trong trận chiến 6 ngày năm 1967 và trao trả cho chính quyền  Palestine. Nhưng vài tháng sau đó, phong trào kháng chiến Hamas đã bất ngờ thắng trong cuộc bầu cử để rồi bắt đầu một cuộc nội chiến chống lại quân đội trước kia của phong trào giải phóng Palestine Fatah. Từ đó những tỉnh ở phía Nam Israel gần đấy thường xuyên cứ bị pháo kích từ phần đất mà Israel đã nhường trả lại cho Palestine.

 

Halevi mô tả Hamas là một nhóm khủng bố mà chủ trương là kêu gọi tiêu diệt Israel và chiến đấu chống lại Do Thái trên khắp thế giới, và những màn tấn công khủng bố chỉ là những tác động nhỏ trong bước đầu tham vọng diệt chủng của họ mà thôi…Gaza đã là  trường hợp trắc nghiệm về cuộc lùi bước của Israel, nhưng thử nghiệm đó đã mang lại một tai họa cho Israel”.

 

Halevi cũng đưa ra nhận xét,  “Nếu như dân Gaza khi nhận được mảnh đất mới đã tự trị, tỏ ra có thiện chí xây dựng hòa bình thì chắc chắn công luận Israel cũng sẵn sàng yểm trợ những đàm phán cụ thể về việc rút lui khỏi West Bank”. Nhưng khi trao trả Gaza thì lại được đáp ứng bằng những đạn lửa từ đó nhả ra thì việc trao trả West Bank xem ra không còn là “củ cà rốt” có hiệu quả trong việc tìm kiếm một nền hòa bình lâu dài giữa hai dân tộc Israel và Palestine nữa.

 

Cũng phải nhận thức rằng “từ thời đại Kinh Thánh cho đến năm 1948, West Bank gồm có thị trấn Jerusalem cũ (trong đó có Bức Tường ở Hướng Tây) và  Hebron (ở đó có mộ của các tổ phụ kinh thánh cả nam lẫn nữ) đã là một phần lãnh thổ của Israel” (Gush Emunim, “West Bank Versus Judea and Samaria,” Jewish  Literacy, 2001, p.343).

 

Xem vậy đủ biết Israel Do Thái đã làm chủ biết bao nhiêu là đất đai. Họ đã nhận ra rằng West Bank một khi đã nằm trong tay dân Palestine thì rất có thể sẽ trở thành bàn đạp, căn cứ địa để phóng hỏa tiễn tấn công vào thị trấn Jerusalem và những vùng phụ cận.

 

NHẬN ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG ANH TONY BLAIR

 

Mùa hè vừa qua, “Ủy Ban Hỗn Hợp 4 Bên” gồm Liên Hiệp Âu Châu, Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ và Nga Sô đã chỉ định nguyên thủ tướng Anh Tony Blair làm đặc sứ ở Trung Đông. Ông Blair đã phải mất rất nhiều thời giờ nghiên cứu vấn đề tại chỗ mới có thể hiểu được những khó khăn trắc trở và bất trị ở trong vùng một cách tường tận và sâu xa hơn.

 

Ông nói: “Bây giờ thì tôi hiểu rõ những khó khăn ở đây nhiều hơn là khi tôi còn làm thủ tướng. Vì cơn ác mộng kinh hoàng mà Israel đã phải chịu sau khi rút khỏi Gaza, tôi rất ngần ngại đề nghị nhường West Bank cho Palestine”.

 

Công thức “Nhường-Đất-Vì-Hòa-Bình” dùng làm căn bản cho những cuộc đàm phán hòa bình giữa Israel và Ả Rập đã cho thấy là thất bại qua vụ Gaza. Bây giờ thì ông Blair đã nhận thấy rằng yếu tố quyết định để có hòa bình là ở cái “đặc tính của phần đất dành cho dân Palestine…….Sẽ không có được đặc tính đó nếu phần đất đó không có một chính phủ để quản trị và điều hành…..Và nếu có ai nói với anh khác đi là họ đã phỉnh gạt anh rồi đấy”  (trích bởi Mortimer Zuckerman, “The Elusive Mid-East Peace, U.S. News and World Repart, Jan.17, 2008).

 

Một thủ tướng, nhất là thủ tướng nước Anh khi nhận định về thế giới Ả Rập mà tuyên bố như vậy thì thật quả là rất quan trọng.

 

ĐE DỌA TRẦM TRỌNG NHẤT ĐỐI VỚI  ISRAEL

 

Trong số những đe dọa hiện có do tổ chức kháng chiến Hamas ở Gaza, Hezbollah ở Lebanon, dân Palestine và cả Syria nữa thì đâu là mối lo ngại nhất đối với chính quyền Israel?

 

Điều nguy hiểm nhất là Iran cương quyết chế tạo khí giới nguyên tử và quyết tâm quét sạch Israel khỏi bản đồ thế giới. Vào giữa tháng 2 vừa qua, thủ tướng Israel Ehud Olmert đã gặp thủ tướng Đức Angela Merkel tại Berlin để đàm luận song phương về chuyện nguyên tử của Iran. Theo tờ International Herald Tribune  thì ông Olmert đã nói là “Iran vẫn còn đang tìm cách chế tạo khí giới hạch nhân và ông đã kêu gọi thế giới hãy ngăn chặn Teheran đừng để họ tiếp tục chế tạo khí giới nguyên tử nữa”. Ông còn cho hay: “Israel ‘biết chắc’ rằng dân Iran đã đang ‘lén lút’ chuẩn bị chương trình sản xuất năng lượng nguyên tử ‘rất quan trọng’”(Feb.13, 2008).

 

Điều đó có vẻ phù hợp với bản tin do cơ quan tình báo Mỹ đã đưa ra nhiều tháng trước đây: “Chúng tôi tiên  đoán  khá chính xác là vào mùa thu 2003, Teheran đã gấp rút hoàn thành chương trình chế tạo khí giới hạch nhân”. Nhưng báo chí lại tỏ ra nghi ngờ về những bản tin như vậy.

 

Mới đây Hội Đồng An Ninh LHQ đã thông qua một quyết định phản đối Iran về việc chế tạo võ khí nguyên tử với số phiếu 14-0, nhưng đối với những nhà quan sát chuyên nghiệp và kinh nghiệm thì đó chỉ là  một loại  nhắc nhở / khiển trách nhẹ mà thôi.

 

Theo báo The Wall Street Journal thì: “Trong khi đó, Iran vẫn coi thường khuyến cáo của Hội Đồng An Ninh LHQ là phải ngưng chương trình phát triển Uranium. Nên nhớ là sản xuất đủ số lượng chất liệu uranium là một trong ba yếu tố chính và cần thiết của bất cứ một chương trình chế tạo khí giới nguyên tử nào. Ba yếu tố này đã được ghi ở phần chú thích ở cuối bài nhận định của Cơ quan An Ninh quốc gia Hoa Kỳ (NIE) vào tháng 12 và nói rằng Iran đã ngưng chương trình làm võ khí nguyên tử vào mùa Thu năm 2003 rồi.

 

“Bản nhận định của Cơ quan An Ninh quốc gia Hoa Kỳ cũng không đả động gì đến yếu tố thứ hai của chương trình chế tạo khí giới nguyên tử của Iran là chương trình phóng hỏa tiễn. Thay vào đó lại nói là Iran đã ngưng công tác nghiên cứu khí giới trên không weaponization mà theo các chuyên viên thì đây là phần ít quan trọng nhất trong chương trình chế tạo võ khí nguyên tử”.(“Irresolution on Iran,” March 10, 2008).

 

Mặc dù tờ Nwesweek trong phần quan điểm cho rằng Chủ nghĩa Phát xít Hồi Giáo không còn là mối đe dọa nguy hiểm nữa, nhưng lại trích dẫn lời Tổng Thống Bush nói là: “Chính quyền Iran đang cố gắng tiêu diệt Israel”. Đồng thời cũng nhắc lại việc ông Tony Blair “so sánh Iran với sức mạnh Phát Xít ở thập niên 1930”. (Newsweek-Nov.19, 2007).

 

Dĩ nhiên đe dọa của Iran đối với Israel sẽ nặng nề hơn là Hoa Kỳ và Anh Quốc, bởi vì Iran ở gần Israel hơn và vì Israel chính là đất hứa như đã nói trong Kinh Thánh.

 

CHIẾN TRANH SAU CÙNG ĐANG SẮP SỬA TỚI SẼ GHÊ GỚM HƠN NHIỀU

 

Dĩ nhiên chúng ta cũng phải để ý đến những lời trong kinh thánh để có một cái nhìn phổ quát về Israel. Thực vậy, ta không thể bàn về lãnh thổ của Israel mà không để ý đến lời Chúa phán. Ngay cả những người Do Thái không tin Chúa cũng phải dựa vào Kinh Thánh để có những đòi hỏi lịch sử và địa dư.

 

Cả Kinh Thánh lẫn lịch sử trần thế đều cho biết lãnh thổ Israel, đặc biệt là Jerusalem là một trong những địa danh có nhiều tranh chấp nhất trên thế giới. Lịch sử cho thấy chính Jerusalem đã bị quân đội xâm lăng tấn công hơn 20 lần. Nhưng không một cuộc xâm lăng nào đã thành công kể từ khi quốc gia Israel được thiết lập năm 1948.

 

Kinh Thánh đã nói rõ ràng là lời tiên tri về ngày tận thế sẽ ứng nghiệm khi dân Do Thái  trở về tụ họp đầy đủ trên quê hương đất tổ của họ.

 

Sách Zechariah cho biết Jerusalem sẽ là trung tâm tranh chấp của thế giới ngay trước khi Chúa Kitô giáng lâm trở lại lần thứ hai: “Đây, ngày Chúa đến, và thiên hạ sẽ chia nhau chiến lợi phẩm ở trong ngươi. Bởi vì Ta sẽ tụ tập tất cả các quốc gia lại để chiến đấu chống lại Jerusalem” (Zechariah 14: 1-2).

 

Những biến cố tiên tri này sẽ không thể xẩy ra nếu chi họ / quốc gia Judah (bây giờ được gọi là Israel) không được tái thiết lập trở lại cách phi thường trên Đất Thánh đúng trước ngày Chúa Kitô đến cùng với những căng thẳng và xáo trộn trên khắp thế giới. Vậy phải chăng khi quốc gia Israel được tái tạo và hiện diện thì thế giới sẽ tràn ngập xáo trộn và điêu linh? Và ngày đó cũng là ngày Chúa đến?

 

Jerusalem sẽ một lần nữa chứng kiến những cảnh bạo động, xáo trộn kinh hoàng. Đọc tiếp câu 2 trong đoạn 14 Zachariah sẽ thấy: “ Thành sẽ bị chiếm, nhà phố sẽ bị cướp, đàn bà sẽ bị hãm hiếp. Nửa thành sẽ bị bắt mang đi làm tù binh, nhưng một nửa dân còn lại thì không bị bắt mang đi”.

 

Vậy ngay cả sau khi Israel tụ tập thành phố lại hồi chiến tranh 1967, lời tiên tri trong Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết là Jerusalem sẽ lại một lần nữa lâm cảnh chiến tranh khói lửa và phân chia. Miền đất này của thế giới được chỉ định làm trung tâm điểm của các biến cố sẽ xẩy ra vào những ngày cuối cùng của thời đại này –Thời của Amageddon và Chúa Kitô giáng lâm trở lại lần thứ hai.

 

Chúa Giêsu Kitô sẽ thực sự trực tiếp can thiệp vào cảnh điêu linh này: “Bấy giờ Chúa sẽ xuất hiện và chiến đấu chống lại những quốc gia này….Và trong ngày đó Người sẽ đứng trên núi Cây Dầu mặt quay về Jerusalem ở hướng đông…. Và Chúa là Thiên Chúa của tôi sẽ đến cùng với tất cả các thánh” (câu 3-5).

 

Sách Zechariah 14:12 và sách Khải Huyền 19: 17-18,21 đều mô tả ngày tận cùng của các đạo binh đang tụ tập chung quanh Jerusalem để chiến đấu chống lại đấng Thiên Sai là Đức Kitô lúc Người giáng lâm trở lại lần II. Điều này chứng tỏ rõ ràng là Chúa Kito đã can thiệp không phải chỉ để cứu một mình dân Israel, mà còn cứu toàn thể nhân loại khỏi bị diệt vong.

 

JERUSALEM SẼ LÀ THỦ ĐÔ TƯƠNG LAI CỦA TOÀN THẾ GIỚI

 

Còn có những lời tiên tri khác cho chúng ta biết là Jerusalem sẽ trở thành trung tâm Hòa Bình của thế giới, của tất cả mọi quốc gia trên mặt đất này. Zechariah còn thêm: “Vậy Chúa nói: ‘Ta sẽ trở lại Zion (ám chỉ Chúa Kitô giáng lâm lần II) và sẽ ngự trị ở giữa Jerusalem. Jerusalem sẽ được gọi là ‘Thành Tín Nghĩa’, Núi của Chúa các cơ binh sẽ được gọi là ‘Núi Thánh’” (Zechariah 8: 3. Có thể coi Jeremiah 3: 17).

 

Hồi xa xưa Thiên Chúa đã hứa: “Những ngày đó chắc chắn sẽ đến, Chúa nói, Ta sẽ làm cho David đâm chồi nảy lộc (ám chỉ đấng Thiên Sai là Đức Kitô) và Người sẽ ngự trị  xứng đáng là vua khôn ngoan, Người sẽ thực thi công lý và công bình” (Jeremiah 23: 5).

 

Tất cả mọi quốc gia trên thế giới, dù xa xôi hẻo lánh đến đâu cũng sẽ gửi đại diện đến Jerusalem để học hỏi đường lối của Thiên Chúa rồi đem về xứ sở mình thông báo cho toàn dân. Isaiah nói: “Sẽ xẩy ra vào những ngày sau này, núi nhà Thiên Chúa sẽ được thiết lập vững bền trên các đỉnh đầu núi non và sẽ được nâng lên cao hơn các đỉnh đồi; tất cả mọi quốc gia sẽ đổ về với Người” (Isaiah 2: 2).

 

Chữ “núi” và “đồi” theo nghĩa tiên tri là ám chỉ các chính phủ và quốc gia. Ở đây có nghĩa là chính phủ của Chúa Giêsu Kitô được thiết lập tại Jerusalem và sẽ cai trị toàn thể thế giới.

 

Isaiah tiếp tục mô tả một thế giới được biến đổi nhờ hiểu biết về cách sống của Thiên Chúa: “Rất nhiều dân tộc sẽ đến và nói ‘Nào, ta hãy lên núi của Chúa, nhà của Thiên Chúa Jacob; Người sẽ dạy ta đường lối của Người và chúng ta sẽ bước đi theo đường lối của Người’. Vì thánh chỉ được ban ra từ Zion và lời Chúa được phán ra từ Jerusalem” (Isaiah 2: 3).

 

Dưới triều đại của Đức Kitô, hoàng đế của hòa bình, mọi chinh chiến, võ khí, ngay cả những trung tâm huấn luyện quân sự cũng bị hủy bỏ (câu 4) Hòa Bình Công Lý đến từ Jerusalem sẽ ngự trị trên khắp thế giới cùng với mọi dân tộc.

 

Buồn thay, những lời tiên tri này đã chẳng được ai để ý đến. Nơi miền đất thánh này vẫn còn đầy dẫy bạo động, tha hóa, tham nhũng, độc tài, sát máu và khủng bố…Tuy nhiên những lời tiên tri được nói trước cả hàng ngàn năm đã cho thấy sẽ có một hòa bình an vui  tràn lan trên Jerusalem. Chúa cơ binh phán: “…..sẽ có những ông già bà lão ngồi trên hè phố Jerusalem, tay cầm gậy vì tuổi hạc cao.  Có cả con trẻ trai gái vui đùa trên đường phố” (Zechariah 8: 4-5).

 

Kinh Thánh đã vẽ ra hình ảnh một tương lai huy hoàng, cuộc sống an bình trên miền đất đầy xáo trộn và tranh chấp dai dẳng triền miên này này.  Tất cả cuối cùng sẽ được an toàn, thoát khỏi mọi hiểm nguy khi Chúa Kitô quang lâm trở lại thống trị thế giới. Jeremiah hứa: “Vào thời của Người, Judah  sẽ được cứu thoát và Israel sẽ được yên ổn, an cư lạc nghiệp” (Jeremiah 23: 6).

 

Ước mong Chúa ban ngày ấy mau đến!

 

Pace Islands, Florida  31-5-2008

NTC

  

 

 P H Ụ    C H Ú:

 

1- PHÂN BIỆT GIỮA NGƯỜI DO THÁI VÀ NGƯỜI  ISRAEL.

 

Ngày nay hầu như hết mọi người đều đồng hóa cái tên Israel với tên Do Thái, Jews. Đa số cho rằng Do Thái hay Israel cũng chỉ là một. Đó là một sai lầm.

 

Về kỹ thuật thì người Do Thái là con cháu của hai chi họ Israel là Judah và Benjamin cộng với một phần đáng kể thứ ba là chi họ tư tế Levi.

 

Còn 10 chi họ khác trong dòng họ Israel nhưng không được nhiều người biết tới nên chẳng bao giờ được gọi là Do Thái. Về phương diện lịch sử và chính trị, các chi họ ở phương Bắc này đã tách biệt ra khỏi các chi họ ở Phương Nam tức người Do Thái.  Những người anh em của chi họ phương Bắc di chuyển về phương Nam và lập thành vương quốc Judah, từ đó mới có cái tên Do Thái / Jews.

 

Liên minh các chi họ phương Bắc tức vương quốc / nhà Israel đã trở thành một quốc gia độc lập, tách ra khỏi nhà Judah vào lúc tên Jew / Do Thái xuất hiện trong Kinh Thánh. Thực ra, khi mà tiếng Jews / Do thái xuất hiện lần đầu tiên trong kinh thánh thì cũng là lúc Israel có chiến tranh với Do Thái (2Kings 16: 5-6.

 

Vậy thì tất cả những người Israel có phải là Do Thái không? Thưa, không phải. Do Thái –những công dân và con cháu của vương quốc Judah- thực sự cũng là người Israel, nhưng không phải tất cả những người Israel đều là Do Thái. Bởi vì tất cả 12 chi họ, trong đó có Do Thái, đều là con cháu của tổ phụ Israel là Jacob, nên chúng ta có thể dùng tên Israel cho tất cả các chi họ. Tuy nhiên, tên Do Thái / Jew chỉ chính xác đối với nhưng người đã chiếm cứ phương Nam lập thành vương quốc Judah và các con cháu của họ.

 

Chẳng may, ngày nay những người Do Thái hiện sinh sống tại tân quốc gia Israel bây giờ lại thường được gọi là dân Israel.

 

2- CHỦ NGHĨA CHỐNG DO THÁI

BÂY GIỜ QUAY RA CHỐNG QUỐC GIA ISRAEL

 

Thày cả chính Rabbi của Anh quốc Sir Jonathan Sacks mới đây báo động thế giới là hiện nay có một phong trào chống Do Thái kiểu mới. Trong một bài thuyết trình ở Luân Đôn, ông đã tuyên bố: “Những người chống Do Thái hiện đang tấn công cả tôn giáo lẫn dân tộc chúng ta. Bây giờ họ quay ra chống quốc gia Do Thái.

 

Nói một cách khác, đây là một biến thái của một căn bệnh tinh thần rất ác độc đang sống lại để phá rối nhân loại. Ông Sacks diễn nghĩa như sau:  “Không giống như những người trước, những tên kỳ thị, chống Do Thái kiểu mới đang nhắm vào không phải là Do Thái giáo với tính cách tôn giáo, cũng không phải nhắm vào người Do Thái như là một sắc dân, nhưng là nhắm vào người Do Thái như là một quốc gia” (We Face a New Kind of Hatred,” The Jewish Chronicle, Nov.16, 2007, p.30).

Một số người lại tin rằng dân Do Thái chỉ là một nhóm chủng tộc không xứng đáng có một quốc gia cho riêng họ. Nhắc lại lời của Amos Oz, một sử gia Israel, Sacks viết: “Vào thập niên 1930, những người chống Do Thái tuyên bố ‘Do Thái hãy trở về Palestine’. Ngày nay thì họ gào thét ‘Do Thái hãy cút ra khỏi Palestine’….Họ không muốn chúng tôi ở đó, họ không muốn chúng tôi ở đây; họ không muốn có chúng tôi” (ibid).

 

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

 

VỀ MỤC LỤC
CỔ VÕ SỰ TỰ LẬP (1)

 

Người Việt chúng ta có câu” Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Các bà mẹ Việt Nam quá cưng con cháu mình. Các bà hay chìu theo ý con cháu, làm hết mọi sự cho chúng, để rồi khi lớn lên, chúng hoàn toàn hư thân, không biết làm một chuyện gì nên thân. Hãy nhớ rằng: “Đừng bao giờ làm cho một đứa trẻ điều mà tự nó có thể làm cho nó!” Phương châm nầy rất là quan trọng đến nỗi nó cần được lập đi lập lại nhiều lần. 

Cô bé Mỹ Lệ 5 tuổi là niềm tự hào của mẹ nó. Cô bé xinh đẹp tuyệt vời và mẹ nó cho nó ăn mặïc rất xinh xắn. Mỗi ngày bà tắm rửa, mặc quần áo, cột giày, chải tóc, và cột tóc cho nó. Cô bé trông như một con búp bê, xinh đẹp, nhí nhảnh, dễ thương, và hồn nhiên. Cô bé không biết cài nút, chưa biết mang tất, mặc áo chưa biết phía nào là trước phía nào là sau, cũng như chưa biết chiếc giày nào là bên chân mặt, chiếc giày nào là phía chân trái. 

Một đêm kia, trong cuộc họp nhóm của các bà mẹ, có người nêu lên điểm nầy: “Chúng ta không nên làm cho đứa trẻ điều mà tự nó có thể làm được.” Nghe thế, mẹ của Mỹ Lệ xem ra khó chịu. “Tôi muốn làm mọi sự cho đứa con tôi. Tôi chỉ muốn lo lắng cho nó. Nó là vinh dự của tôi,” bà nghĩ thế. 

Nếu bà mẹ của Mỹ Lệ nhận thức ra điều mà bà đang làm cho con bà, bà sẽ bị khủng hoảng. Thật vậy, tình yêu mà bà dành cho con bà là yêu mình. Bà thấy bà như một người mẹ mà đời sống bà hoàn toàn tận hiến cho sự lo lắng cho đứa con. Nhưng thật ra không phải thế, bé Mỹ Lệ đang được huấn luyện để trở thành một đứa bé vô dụng, lệ thuộc, thiếu tự tin, và vô tích sự. Cô bé có thể cảm thấy rằng nó chỉ có một chỗ đứng khi mình được chú ý và mọi sự được làm để phục vụ mình. Nên nó rất ít đóng góp bằng việc hành động. Tất cả đều do má nó cống hiến, và đó cũng là ý muốn của nó. Nó hoàn toàn thụ động. 

Chỉ còn một năm nữa thì cô bé phải đi học. Bấy giờ mẹ nó không ở đó để làm mọi sự cho nó và cô bé sẽ phải chiến đấu. Sự can đảm có thể bị xóa mòn và sự vô dụng có thể sẽ tăng thêm. Bấy giờ cô bé sẽ phải đối đầu với sự khủng hoảng mà nó hoàn toàn không được chuẩn bị. 

Khi chúng ta làm cho một đứa trẻ điều mà nó có thể làm cho nó, chúng ta tỏ cho nó thấy rằng chúng ta lớn hơn nó, như: tốt hơn, có khả năng hơn, khéo léo hơn, kinh nghiệm hơn, và quan trọng hơn. Chúng ta tiếp tục tỏ sự trổi vượt hơn của chúng ta và sự sút kém của nó. Bấy giờ chúng ta lại lấy làm ngạc nhiên tại sao nó cảm thấy bất tài và thiếu sót. 

Làm cho một đứa trẻ điều mà nó có thể làm cho tự nó là cực kỳ thất sách vì tước đoạt nó khỏi cơ hội chứng tỏ khả năng của nó. Điều đó cho thấy sự thiếu tin tưởng của chúng ta vào khả năng, sự can đảm, và sự thích ứng của nó, lấy mất đi cái cảm giác “tự cảm thấy an toàn” được căn cứ trên sự nhận thức về khả năng riêng của nó để đối đầu và giải quyết những vấn đề rắc rối, và không cho nó quyền phát triển cái cảm giác “tự cảm thấy đủ”, để giữ mãi hình ảnh cũng như nhu cầu cần đến chúng ta. Như thế, chúng ta tỏ cho thấy một sự thiếu kính trọng đối với đứa trẻ như là một con người. 

Bà mẹ, Bích Thủy 4 tuổi, và Bích Vân 3 tuổi, đang mặc những bộ đồ để ra chơi tuyết. Đây là một niềm vui thích cho các cô gái vì bà mẹ rất thích thú đắp những tượng bằng tuyết với các con bà. Bích Thủy mặc toàn bộ gồm cả đôi giày tuyết, không có vấn đề gì. Bích Vân kéo dài thời gian và tỏ vẻ không vừa lòng. Cô bé chỉ đứng nhìn bộ quần áo tuyết của cô, không cố gắng mặc vào. “Bích Vân, nào! Hãy mặc đồ đi.” Bà mẹ thúc đẩy trong khi buộc chặt đôi giày tuyết của bà. Bích Vân ngậm ngón tay trong miệng và không nhúc nhích. “Con ơi, tại sao lại cứ như vậy? Ngồi xuống và làm như mẹ đã dạy. “Con không thể,” cô bé khóc thút thít. “Con mặc đi. Thôi đến đây.” Bà mẹ không đủ kiên nhẫn nên mặc đồ cho cô bé trong khi Bích Thủy nhìn thấy tất cả một cách thõa lòng. 

Cô bé Bích Vân là đứa bé đã học thấy rằng chính sự bất khả và vô tích sự mang lại sự chú ý và phục vụ của bà mẹ, và cái khả năng của chị nó thêm vào sự thất vọng của nó. Bích Thủy thích thú khi nhìn thấy cô bé vô dụng vì điều đó khiến nó giữ vị thế ưu tú của nó được an toàn. Bà mẹ trong sự mất nhẫn nại lại củng cố mục đích của cả hai. Bà mở lối cho sự lười biếng của cô bé bằng cách làm cho nó điều mà tự nó có thể làm. Cô bé sẽ không có cơ hội để phát triển sự tự lập bao lâu bà mẹ còn làm những điều như thế cho cô bé. 

Cô bé Bích Vân cần nhiều khích lệ. Cô bé cần một quan niệm mới về chính nó và một phương pháp mới để tìm ra chỗ đứng cho nó. Sự phục vụ mà má nó dành cho nó thật sự không cần thiết. Có thể cần thời gian và sự kiên nhẫn để khuyến khích nó. Vì bà mẹ đã dạy cho nó cách mặc bộ quần áo tuyết nên bà có thể phớt lờ và coi như nó biết cách mặc. Bây giờ bà phải lùi bước để cho cô bé có chỗ tự lo cho nó. Có thể là khôn ngoan hơn nếu để cho nó có nhiều thời gian hơn để mặc quần áo của nó, bằng cách bảo nó hãy bắt đầu sớm hơn và hãy khích lệ nó một cách kiên nhẫn, không vội vàng. “Cưng ơi, con có thể làm được. Con là một đứa con gái đủ lớn rồi.” Khi cô bé bảo rằng “Không thể”, bà mẹ chỉ cần nhấn mạnh rằng “Con có thể làm được. Con cố gắng. Khi nào con làm xong, chạy ra đi với mẹ.” Có thể là cô bé sẽ đóng kịch. Cô có thể khóc cách thảm thương và không cố gắng thêm. Lần nầy, có thể cô bé không tham gia với mẹ và Bích Thủy. Bà mẹ phải tránh cảm giác thương hại là cái làm tăng thêm sự vô dụng của nó bằng cách trở vào để giúp nó mặc quần áo và mang nó ra để cùng tham dự với bà và Bích thủy. Khi cô bé cảm thấy rằng không có ai thương hại cho hoàn cảnh của nó, cô bé sẽ thay đổi đầu óc và sẽ quyết định giải quyết vấn đề cho chính mình.

lm. le van quang, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC
Cho đến cùng 

 

Tác phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống 

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

Phần thứ ba: Cẩm Nang Chỉ Đường 

sáu 

Cho đến cùng 

Cầu nguyện cho đến cùng, chính là yêu cho đến cùng. Bạn đã bước đi trên đường ánh sáng, và cuối đường, Thiên Chúa đang chờ đợi bạn. Như một lữ hành không mệt mỏi, bạn phải kiên trì cho đến cùng, nghĩa là cho đến chết. Đừng bao giờ thôi nhìn vào mục tiêu vĩnh cửu và không ngừng tìm sống một tình yêu ngày càng hoàn hảo, như thánh Phaolô diễn tả trong bài ca ngợi bác ái của ngài (I Cor.13).

Tình yêu nhẫn nại

Những đức tính nào bạn cần để đi cho đến cùng? Thưa hãy vất bỏ những gì làm bạn vướng bận, rồi thay thế vào hành trang cái rất quan trọng, tiên quyết, không thể thiếu nầy là Sự Nhẫn Nại. 

Nhiều người muốn thấy mình đã đến đích, mà không chịu đi qua con đường dẫn đến đích. Có những kẻ bắt đầu vào cuộc sống thiêng liêng quá nôn nóng, muốn thấy mình ngày một ngày hai đã nên thánh thiện rồi! Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Trong số những kẻ ấy, một số đông vạch ra những chương trình nên thánh lớn lao với những kế hoạch tuyệt vời, nhưng vì thiếu khiêm tốn mà lại quá tự phụ, họ vấp ngã nặng chẳng khác gì những bậc cao họ muốn trèo lên. Những người đó không có lòng nhẫn nại chờ đợi thời giờ của Chúa, Đấng sẽ ban cho họ nhân đức khi Ngài thấy là tốt.’’ 

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã muốn đạt được vô địch thế giới về sự thánh thiện. Mẫu gương anh hùng của cô bé là Jeanne d’Arc. Têrêxa đã mơ làm những kỳ công cho Chúa và chết tử đạo, dường như có thể chinh phục được sự thánh thiện bằng mũi gươm. Nhưng Ngài sớm hiểu được rằng đó là lý tưởng sai lầm. Tuổi trẻ cần theo đuổi một mộng ước, nhưng sớm muộn gì cũng phải khám phá ra những định luật của thực tế. Tất cả chúng ta đều bắt đầu thử mở cửa Nước Trời bằng cách cố hết sức đẩy, đẩy đến kiệt lực, trong khi những người biết lưu tâm nhất khám phá thấy rằng một ngày kia cửa sẽ tự mở ra... khi kéo nhẹ một cái. Ngay khi Têrêxa vượt qua được giai đoạn đó, Ngài có thể làm một cuộc chạy vĩ đại tiến đến một hình thức thánh thiện khôn tả. 

Bạn cũng thế, bạn cũng đã khởi đầu cuộc mạo hiểm tìm kiếm một sự thánh thiện mới mẻ: sự thánh thiện của bạn. Bạn hãy trang bị cho mình sự nhẫn nại để tiến hành một cuộc chạy có nền tảng. Hãy nhắm toàn thể cuộc sống bạn, không phải chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, mà là thời gian dài lâu. Bạn hãy học cho biết bản thân đầy đủ để biết mỗi ngày, cho đến khi bạn có thể đi thật xa... Sự quảng đại thôi không đủ. Điều quan trọng là phải biết lượng sức để khỏi kiệt lực: tạm thời chịu đựng bất toàn hơn là vội vượt lên sự thánh thiện không đạt tới được. Tâm hồn cháy lửa tình yêu thì mềm mại, dịu dàng, khiêm tốn và nhẫn nại. Như vậy rồi, bạn hãy tiến bước, luôn luôn chạy tới trong cùng một hướng, không hề ngã lòng. Kẻ nào không tiến tới là phải lùi lại. 

Tình yêu là lưu tâm 

Chờ đợi thời giờ của Chúa là chân trời của tình yêu nhẫn nại. Thời giờ đó không phải là duy nhất trong cuộc đời bạn. Nó tương hợp với mỗi giai đoạn biến đổi mà Chúa cho thấy hoạt động của Ngài. Bây giờ tôi muốn nói đến giai đoạn bạn có quyền ước ao và chuẩn bị: đi từ cầu nguyện đến chiêm niệm. Cho đến lúc nầy, tôi mới chỉ cho bạn những lối suy niệm, đôi khi hướng tới lời cầu nguyện sâu xa hơn. Bây giờ đến lúc phải rõ rệt hơn. Vì tình yêu Chúa phải xâm chiếm cuộc đời bạn, bạn được mời gọi cầu nguyện liên tục. Chúa nói với các môn đệ: “Các con hãy cầu nguyện không ngừng’’ (Lc.18,1; 1Th.5,17). Các thánh mọi thời và mọi kiểu đều đã thực hành mệnh lệnh đó. 

“Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành’’ (Mt.6,47). Chính Chúa Giêsu dư biết mục tiêu tối hậu đó con người khó đạt tới được. Nhưng Ngài thêm ngay rằng không gì là không thể đối với Thiên Chúa. Vấn đề là thực hiện cái không thể với ân sủng của Chúa. Vậy làm thế nào để nhận lãnh và sống ơn Chúa 100%? Câu trả lời căn bản có tên là Chiêm niệm. 

Khi bạn kiên trì lâu dài trong việc cầu nguyện, bạn tìm được một sự chú ý có phẩm chất làm cho bạn hiện diện với Chúa. Dần dần các suy nghĩ, các câu nói được xóa đi khỏi trí bạn để nhường chỗ cho một hiện diện thinh lặng. Sự hiện diện và gần gủi nầy luôn trở nên thinh lặng hơn, như hai người yêu lặng lẽ ở bên nhau, không cần nói với nhau một lời nào nữa, chỉ có ánh mắt và con tim lên tiếng nói. Như thế, càng gần Chúa, ta càng hiểu sâu xa, con tim rộng mở và hiến dâng... 

Chiêm niệm không là gì khác ngoài sự chú tâm tràn đầy tình yêu cho Thiên Chúa. Ngay khi bạn bắt đầu sống chiêm niệm, bạn hãy bỏ rơi đi những câu nói, những bản văn, những tình cảm. Chừng nào bạn có thể, hãy ở bình an lặng lẽ, không làm gì, mà cũng chẳng nói năng gì. Hãy để cho bạn được mang đi. Hãy để trí bạn thanh thản, khỏi mọi tư tưởng, mọi lo âu, mọi hiểu biết. Bạn hãy bằng lòng với một sự chăm chú đầy yêu thương cho Chúa. Bạn hãy tự nhủ đó là thời khắc đặc ân cho công cuộc của ân sủng Chúa ở trong bạn. Bạn không biết thế nào, nhưng Thánh Thần Chúa thực hiện một sức mạnh nhiệm mầu trong linh hồn bạn. Ngài vẽ chân dung mới của bạn và khi hết nguyện gẫm bạn được thay đổi ở một mức độ tình yêu cao hơn. 

Để cho thời gian chiêm niệm trải rộng như vết dầu loang ra dần và biến đổi tận căn đời sống hằng ngày của bạn, bạn cần yêu mến Chúa trọn thời gian: Bạn nhớ Chúa buổi tối khi đi ngủ, buổi sáng khi thức dậy, trong khi di chuyển, trước khi làm việc, lúc ăn cơm... Kẻ nào yêu mến thật sự thì lúc nào cũng nghĩ đến tình yêu, từ sáng đến tối, dù là những lúc bất ngờ nhất: “Tôi ngủ, nhưng tim tôi vẫn thức’’ (Ct.5,2). 

Tình yêu chịu đựng tất cả

Không ai có thể đạt tới tình trạng chiêm niệm ấy nếu không nhận được ơn Chúa. Điều duy nhất mà Chúa xin bạn là chuẩn bị chính bản thân bạn. Không phải chỉ bằng lời cầu nguyện càng lúc càng giản dị và sâu xa, mà còn bằng một đời sống càng ngày càng được hiến dâng: “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu’’ (Jn.15:13). Nhưng làm sao hiến mạng sống bạn, nếu bạn không để mất đi tính ích kỷ và kiêu ngạo của bạn? Chúa Giêsu năng nhắc cho các môn đệ rằng họ cần từ bỏ nhiều thứ, ngay cả mọi sự, để theo Ngài. Mất đi tất cả để được lại tất cả cách sung mãn. 

Bạn không cần phải vào sa mạc để sống nốt quảng đời còn lại của bạn đâu. Sa mạc có thể có ngay trung tâm cuộc sống hằng ngày của bạn. Căn bản là tình yêu kéo bạn đến với Chúa. Bạn hãy để chỗ tự do trong trái tim bạn cho một ý muốn, một ảnh hưởng, một thỏa mãn duy nhất là của Chúa mà thôi. 

Muốn thế, trước hết bạn hãy học không còn phàn nàn, nhưng phản ứng với bộ mặt vui vẻ trong mọi hoàn cảnh vì tình yêu Chúa. “Không có gì ghê tởm cho bằng những lời phàn nàn của kẻ chỉ mất chiếc khăn tay trước mặt người phải mất tất cả, những lời phàn nàn của kẻ đau ngón tay trước người sắp phải chết, những lời phàn của kẻ nhàm chán cuộc sống tiện nghi bên cạnh người rách rưới... mà không một chút phàn nàn.’’ 

Bạn hãy tập từ bỏ tiện nghi, tính mê ăn... Mỗi khi bạn có thể, mà không bất tiện chi và trong kín đáo, bạn hãy tự tước bỏ cái làm bạn thích thú. Bạn hãy dâng sự hy sinh đó cho Chúa, để làm vui lòng Ngài. Bạn sẽ sớm gặt hái được một niềm vui tồn tại lâu dài. Nếu bạn luôn tìm bắt chước con đường nghèo hèn Chúa Giêsu đã chọn, một ngày kia bạn sẽ tìm lại được tất cả những gì bạn đã từ bỏ. Thánh Phaolô chia sẻ: “Thực ra tôi đã học cho biết tự lấy làm đủ trong mọi hoàn cảnh. No hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen đi cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được tất cả’’ (Ph.4,12-13). 

Tình yêu hy vọng tất cả 

Chiêm niệm và hy sinh là hai cánh cho tình yêu bay đi đến tận cùng đường của nó. Người chiêm niệm là con người của khát vọng mà sách Khải Huyền nói tới (x. Kh.22:17). Thay vì sợ chết, người kêu gọi nó, bởi vì nó là bạn đường bắt buộc để đi đến sự sống vĩnh cửu. Tình yêu càng lớn lên trong trái tim người, người càng để nó mang lấy thương tích mà chỉ có một cách chữa là khơi sâu thêm vết thương. Như Maria Madalena đổ dầu thơm vào chân Chúa Giêsu, người dám làm những sự điên rồ vì Chúa. Sự trọng kính của con người không còn cản bước người khi phải bộc lộ một tình yêu và hy vọng vượt quá lẽ thường. Người sống mỗi ngày một hơn cái định nghĩa của sự thánh thiện nầy: “Một trạng thái của con tim làm chúng ta nên khiêm tốn và nhỏ bé trong tay Chúa, ý thức sự yếu đuối của mình và tin tưởng đến táo bạo vào lòng tốt của Cha’’ (Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu). 

Sự nghèo hèn và khao khát của người càng khiến người van xin Chúa như ăn mày. Nhưng sự van xin đó chứa đựng mọi hình thức của cầu nguyện: ca ngợi, thờ lạy, tạ ơn. Nó hòa nhập với sự thinh lặng nội tâm. Vì sự thinh lặng của một con người đã được thanh thoát cũng chính là lời cầu nguyện. Bất cứ cử động nào của con tim đều như một tiếng nói âm thầm và kín đáo ca ngợi Đấng Vô Hình. 

Bất cứ bạn ước mong gì nơi Chúa, bạn sẽ nhận được như bạn hy vọng. Nếu bạn chỉ có một niềm hy vọng nhỏ bé, bạn sẽ nhận lãnh được ít. Nếu niềm hy vọng của bạn lớn lao, bạn sẽ lãnh nhận được nhiều. Nếu niềm hy vọng của bạn triển nở trong lời cầu nguyện và hy sinh liên tục, bạn sẽ lãnh nhận được tất cả. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta’’ (Rm.5:5). Bạn hãy hy vọng sự thánh thiện của bạn. Bạn hãy hy vọng đời sống vĩnh cửu. Bạn hãy hy vọng phần rỗi của anh chị em bạn. Bạn hãy hy vọng Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. 

Niềm hy vọng kitô hữu vượt quá mọi kỳ vọng nhân loại. Vì niềm hy vọng kitô giáo đặt mọi sự nơi Mầu Nhiệm Phục Sinh, nó có thể đương đầu với mọi thử thách thánh giá. Niềm hy vọng ấy sẽ cho bạn can đảm để đi cho tới cùng sự hy sinh cao cả nhất. Bạn hãy nhớ lại lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói với Giới Trẻ Thế Giới ở Saint Jacques de Compostelle: “Các bạn đừng sợ trở nên những vị thánh.’’ 

“Sứ điệp của tôi đơn giản trong hai chữ thôi: Bình An và Hy Vọng! Bình An vì chiến tranh đã dạy cho tôi rằng chỉ có hòa bình thật sự trong tâm hồn, được chính Chúa Giêsu ban tặng. Hy Vọng là khả năng nhìn thấy vô hình, khả năng đã cho Đức Maria sức mạnh đứng vững trước cái mà mọi người gọi là Chấm Dứt: thật ra đó chỉ là mới Bắt Đầu!  Can đảm lên! Đời sống với Chúa Giêsu thật đáng giá! Hãy cho Ngài tất cả... Không chậm trễ, không lấy lại, không nếu, không nhưng, không trừ... Đó là hạnh phúc đích thật!’’ 

             Thinh lặng chiêm niệm

             Bạn hãy làm thinh đi

             Chúa Giêsu đang nói với bạn,

             Nhưng Ngài nói cách dịu dàng,

             Ngài thủ thỉ trong khi bạn lại la hét,

             Nên bạn chẳng nghe được Ngài. 

             Tuy nhiên đã từ lâu,

             Ngài cố gắng làm cho bạn nghe được tiếng Ngài.

             Nhưng Chúa lịch sự và giản dị,

             Ngài chờ khi nào bạn thôi nói. 

             Để nói với bạn, Ngài biết lắng nghe bạn.

             Bây giờ đến phiên bạn,

             Bạn hãy thử cố gắng lắng nghe Ngài. 

             Bạn hãy đi vào sa mạc,

             Hãy tạo nên thinh lặng:

             Chung quanh bạn, và ở trong bạn.

             Trong sa mạc,

             Không thể nào mà không nghĩ đến Chúa. 

             Tình Yêu thật lặng lẽ.

             Nhưng có những thinh lặng dồn nén,

             Những tiếng kêu bị chặn lại trong tim,

             Những thinh lặng rộn ràng,

             Những thinh lặng ích kỷ.           

             Nhưng cũng có những thinh lặng dâng hiến,

             Những thinh lặng đón mời,

             Những thinh lặng lắng nghe,

             Những thinh lặng yêu thương. 

 

             Vâng, lạy Chúa,

             Con nín lặng và ngắm nhìn Chúa.

             Con nhìn Chúa và như vậy là đủ cho con.

 

             Hai cái nhìn gặp nhau là thinh lặng,

             Và lấy làm đủ cho nhau.

             Bạn làm thinh và Chúa nín lặng,

             Bạn chiêm ngắm Chúa và Chúa nhìn bạn,

             Bạn yêu mến Chúa và Chúa mến thương bạn. 

             Thời gian không còn tính đếm nữa,

             Không còn gì hiện hữu quanh bạn,

             Ngoài ra chỉ còn có Chúa. 

             Và Chúa nói với bạn,

             Có lẽ chỉ qua một cái nhìn,

             Một nụ cười trẻ thơ,

             Sự nhỏ nhẹ của một người không nhà,

             Một cử chỉ tầm thường,

             Hay là qua tạo vật. 

             Có những thinh lặng rộn ràng,

             Và có những thinh lặng yêu thương,

             Những thinh lặng lặng lẽ.

             Tôi đói sự thinh lặng.

            Nhưng thinh lặng nào? 


 

             Lạy Chúa,

  Con cám ơn Chúa về sự thinh lặng dưỡng nuôi con,

             Sự thinh lặng con nhận lãnh như quà tặng,

             Và nó không ngừng nói với con về Chúa,

             Như miếng bánh thánh nầy,

             Mà con thưởng thức từng chút một,

             Và nó đã làm con dịu cơn đói. 

             Lạy Chúa,

             Trong rộn ràng và tiếng động của cuộc sống,

             Con chìm đắm, con mất hút, con đi xa,

             Và linh hồn con mệt lả.

             Nhưng Chúa nhẹ nhàng dẫn dắt con

             Đến điều chính yếu: Chúa ở trong con.

             Sự sung mãn để Chúa ở trong con,

             Để con chỉ hiện hữu bởi Chúa. 

             Những chuyện vãn thành tiếng động

             Sẽ xóa đi dần khỏi ký ức con.

             Và thinh lặng đổ đầy cho con:

             Bây giờ, con xin Chúa hãy ở lại. 

VỀ MỤC LỤC
Sau Thiên Tai, Bão Lụt, Động Đất

 

Con người thường hay “lạc quan tếu” khi nghĩ rằng trái đất thuộc quyền sở hữu của mình. Thực ra, họ chỉ ăn nhờ ở đậu trên đó mà thôi, vì trái đất là của Thiên Nhiên, Tạo Hóa.

Tại mỗi nơi loài người sống thì thiên tai đều có thể xảy ra. Đây là những hoàn cảnh khẩn cấp gây ra do biến cố của môi trường hoặc thời tiết khắc nghiệt. Thiên tai có thể là động đất, cháy rừng, núi lửa, bão lụt, sóng thần, hạn hán, cơn giông, sấm sét mà các khoa học gia cho đó là những sinh hoạt tự nhiên của trái đất. Và những biến cố này cũng chứng tỏ cho con người thấy rằng, Mẹ Thiên Nhiên luôn luôn có nhiều quyền lực. Khi quyền lực này ra tay thì con người trở nên yếu đuối, chịu trận, nếu không biết cách phòng tránh, tự vệ.

 Hậu quả của thiên tai là các đe dọa trầm trọng cho sức khỏe cơ thể, cho sự hài hòa xã hội và cho nền kinh tế tại địa phương.

Sẽ có cả ngàn tử vong, thương tích, nhiều loại bệnh truyền nhiễm xảy ra. Thực phẩm nước uống trở thành hư hỏng, nguy hại. Nạn nhân không nơi trú mưa tránh nắng và rất nhiều người rơi vào tâm trạng bất an, trầm cảm.

Tử vong trực tiếp do thiên tai đột ngột đa số là vì chấn thương thể chất, chết đuối, sức ép. Ấy là chưa kể thiệt hại về mùa màng, gia súc, chim muông, cầm thú. Mỗi thiên tai đều để lại những vết sẹo lâu ngày mới xóa nhòa, hồi phục.

Điều đáng ghi nhớ là tại các quốc gia đang phát triển, sự thiệt hại do thiên tai nhiều gấp bội vì thiếu các cơ sở hạ tầng, nguồn hỗ trợ, cứu giúp cũng như phương thức dự đoán, phòng tránh thiên tai. 

Năm 1500 BC, một cơn sóng thần đã hoàn toàn xóa bỏ nền văn minh Minoa của Hy Lạp cổ xưa. Năm 1138, động đất ở Syria đưa tới 230,000 tử vong. Từ năm 1330-1351, dịch Tử Thần Đen (Black Death) với vi khuẩn Yersinia Pestis đã lấy đi mạng sống của 75 triệu người trên thế giới, trong đó có gần 30 triệu từ Âu châu, vì bệnh dịch hạch. Lũ lụt Hoàng Hà năm 1931 khiến cho từ trên dưới 3,7 triệu tử vong vì chết đuối, bệnh tật, đói khát và hạn hán. Sóng thần Nam Dương năm 2004 giết hại 225,000 người. Hurricane Katrina tại New Orleans năm 2005 tuy gây thiệt hại nhân mạng nhẹ (1,800 người) nhưng thiệt hại vật chất quá lớn, cho tới thời điểm này vẫn chưa hồi phục.

Mới đây, ngày 2 tháng 5, 2008, bão lụt tại Myanmar đưa tới 78,000 tử vong, 57,000 mất tích, số người bị thương chưa biết rõ và cả 2 triệu người cần giúp đỡ.

Liền sau đó là động đất ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 12 tháng 5, 2008. Theo thông tin chính thức từ chính quyền Trung Quốc, cho tới  ngày 2 tháng 6, 2008, có trên 69,000 tử vong, khoảng 400,000 thương tích, gần 20,000 người mất tích và trên 15 triệu cư dân không nơi cư trú, phải di tản. 

Với quyết định 44/236, ngày 22 tháng 12 năm 1989, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã chỉ định ngày thứ Tư của tuần lễ thứ hai mỗi tháng 10 là ngày Quốc Tế Giảm Thiểu Thiên tai trong thời gian 10 năm, 1990-1999.

Tới ngày 21 tháng 12 năm 2001, với quyết định số 56/165, Đại Hội Đồng quyết định duy trì ngày này là ngày toàn cầu ý thức thiên tai bao gồm phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại, và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với thiên tai. Khi mọi người có hiểu biết về thời gian thiên tai có thể xảy ra, biết phải làm gì trước và sau thiên tai thì thiệt hại về nhân mạng và tài sản sẽ bớt xuống rất nhiều.

Bài viết giới hạn ở lãnh vực bệnh tật xảy ra sau thiên tai, nhất là các bệnh truyền nhiễm. 

Bệnh truyền nhiễm sau thiên tai

Có nhiều loại bệnh có thể xuất hiện sau thiên tai. Nạn nhân bị thương tích và dễ dàng nhiễm trùng. Nạn nhân không chạy thoát khỏi hiện trường vì bệnh hoạn có nhiều nguy cơ bệnh nhiễm hơn. Khi tập trung ở nơi tạm trú chen chúc, thiếu vệ sinh, bệnh nhiễm cũng dễ dàng xảy ra. 

1- Bệnh truyền nhiễm do nguồn nước uống bị pha lẫn các vi sinh vật gây bệnh như tiêu chẩy, dịch tả, kiết lỵ, viêm gan A, bệnh leptospirosis.

Thường thường, sau một thiên tai, hệ thống cung cấp nước sạch đều bị phá hủy. Việc cung cấp nước an toàn cần thời gian để thực hiện. Nạn nhân đành phải dùng bất cứ loại nước nào sẵn có, mà nước này đa số đều bị ô nhiễm với đủ loại vi khuẩn đến từ xú uế cống rãnh, phế thải công kỹ nghệ.

Các vi khuẩn Vibrio Cholerae, E Coli là tác nhân chính của bệnh dịch tả và tiêu chảy. Chúng đến từ phân của người và súc vật tràn đầy trong nước lũ lụt.

Viêm gan A và E lan truyền do đường phân-miệng vì thiếu nguồn nước an toàn và kém vệ sinh cá nhân.

Viêm gan A hầu như xảy ra thường xuyên (endemic) tại đa số các quốc gia đang phát triển và rất nhiều trẻ em đều đã mắc bệnh và trở nên miễn nhiễm với bệnh. Do đó, ở các nơi này số người bị bệnh rất ít.

Ở các địa phương có dịch viêm gan E, bệnh xảy ra sau mưa, lụt. Bệnh không trầm trọng, tự hết nhưng với phụ nữ có thai thì tử vong có thể lên tới 25%.

Leptospirosis là bệnh về da, niêm mạc miệng gây ra do tiếp xúc trực tiếp với nước, đất, bùn chứa vi khuẩn leptospires. Xuất xứ của các vi khuẩn này là từ nước tiểu động vật gậm nhấm như chuột, sóc. Lũ lụt tạo cơ hội thuận tiện cho vi khuẩn lan rộng. Bệnh bắt đầu với cơn sốt và có thể ảnh hưởng tới gan, màng não, thận.

Ngoài ra, khi cơ thể tiếp xúc trực tiếp với nước ô nhiễm, một số bệnh khác cũng thường xảy ra như vết thương làm độc trên da, viêm da, bệnh tai mũi họng, bệnh viêm mắt.

2- Bệnh do côn trùng chuyển-tải (vector-borne diseases)

Côn trùng chuyển-tải thường thấy nhất là muỗi.

Sau biến cố thời tiết như giông tố, bão lụt, vùng nước ngưng đọng là môi trường thích hợp cho côn trùng sinh sản và tăng rủi ro lây truyền bệnh. Ban đầu, bão lụt đẩy vi sinh vật đi xa nhưng sau đó, nước ổn định, nằm lại, chứa nhiều vi khuẩn.

Tại đây, nạn nhân thiên tai cũng như nhân sự cấp cứu dễ dàng mắc các bệnh Sốt rét định kỳ (malaria), sốt đập lưng (dengue), viêm màng não, Sốt West Nile. Rủi ro mắc bịnh gia tăng nếu dân chúng sống chen chúc chật hẹp và ăn ngủ ngoài trời, muỗi đốt.

Sốt rét do các ký sinh trùng nhóm Plasmodium xâm nhập hồng huyết cầu. Bệnh do muỗi anopheles truyền sang người và thường thấy ở các vùng có khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới.

Bệnh sốt đập lưng là bệnh virus truyền sang người do muỗi Aedes aegypti với các triệu chứng như sốt, đau nhức xương khớp, đau đầu, chẩy nước mắt. Bệnh ít gây chết người nhưng bệnh nhân suy nhược rất nhiều và cần thời gian lâu để phục sức.  

3- Bệnh gây ra do quá đông dân chúng

Vì nhà ở bị thiên tai phá hủy, dân chúng phải ăn ngủ trong các nơi tạm trú chen chúc đông người. Thêm vào đó là các tiện nghi căn bản nhà tắm cầu tiêu, bếp núc đều hết sức giới hạn, kém vệ sinh. Theo sự quan sát của các nhà chuyên môn John T. Wastsonm, Maire A. Connolly của Cơ Quan Y tế Thế Giới (WHO), đây là những hoàn cảnh thuận lợi cho sự lây lan một số bệnh truyền nhiễm như bệnh đường hô hấp, bệnh ban sởi, bệnh viêm màng não.

Thiếu dinh dưỡng là chuyện thường xảy ra trong thời gian đầu sau thiên tai, đặc biệt đối với dân chúng tại các địa phương có sự xung đột, bất ổn.

 Theo các nhà quan sát, sau bão lụt Nargis ở Myanmar, có cả nhiều chục ngàn người đang phải đối mặt với đói khát vì không có thực phẩm nước uống, nhất là mùa mưa sắp diễn ra trong những ngày sắp tới. Thiếu dinh dưỡng đưa tới suy nhược cơ thể và nạn nhân dễ dàng mắc bệnh truyền nhiễm.

4- Các rủi ro vì nước lụt như chết đuối, giảm thân nhiệt nhất là đối với trẻ em chìm mình trong nước quá lâu, tăng viêm phổi vì tiếp xúc với nước lụt ô nhiễm và nước mưa giá lạnh cũng là những điều cần được lưu ý. 

5- Bệnh do gián đoạn các dịch vụ thông thường như cung cấp điện nước.

Nước uống dễ dàng bị nhiễm vì hòa lẫn chất dơ, vi khuẩn đưa tới bệnh tiêu hóa.

Không có điện khiến cho việc cất giữ thực phẩm, vaccin gặp trở ngại. Thực phẩm hư thối gây ra bệnh nhiễm như tiêu chẩy.

Thiếu điện cũng khiến cho không khí tù hãm, tăng lây lan bệnh nhiễm trùng tại khu tạm trú đông đúc người tị nạn.

6- Ảnh hưởng tinh thần sau thiên tai

Sau mỗi thiên tai, nạn nhân sống sót ở trong tâm trạng rất căng thẳng, sợ hãi, lo âu. Họ sẽ có một số phản ứng như:

- Băn khoăn, không hiểu nổi tại sao lại có chuyện bất hạnh này;

- Lo sợ cho tương lai không biết sẽ như thế nào;

- Bối rối, mất định hướng, không tập trung, quyết định được việc gì;

- Có những cơn ác mộng, nhớ lại thảm cảnh đã qua;

- Thay đổi tính tình, dễ tức giận, buồn rầu;

- Cảm thấy trở nên bất lực, tuyệt vọng;

- Người mệt mỏi suy nhược

- Nhức đầu, đau mình, đau bụng

- Rối loạn giấc ngủ,

- Ăn uống bất thường, mất khẩu vị.

Giải quyết các khó khăn tâm lý này là vấn đề lâu dài, đặc biệt là đối với nạn nhân ít tuổi, tương lai còn dài. 

Các biện pháp phòng tránh

Để phòng tránh các bệnh truyền nhiễm, những biện pháp như sau cần được áp dụng: 

1- Trong vòng 48 giờ sau thiên tai cần có một toán đặc nhiệm tới tận nơi để ước lượng tình hình thiệt hại, rủi ro y tế có thể xảy ra.

2- Thiết lập một hệ thống báo động, khám phá dịch bệnh.

3- Cung cấp nguồn nước sạch cho nạn nhân càng sớm càng tốt vì nước là một nhu cầu cấp bách. Nước có thể được khử trùng bằng hóa chất chlorine, ít tốn kém lại nhiều hiệu lực.

4- Chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nếu được cung cấp sớm, chăm sóc sức khỏe ban đầu giúp khám phá ra bệnh rồi điều trị ngay như vậy sẽ tránh được bệnh bộc phát, lây lan. Các bệnh dịch tả, tiêu chẩy, nhiễm hô hấp, sốt rét có thể trở thành dịch nếu không bị dập tắt ngay từ đầu.

5- Hướng dẫn nạn nhân về giữ gìn vệ sinh cá nhân, an toàn thực phẩm,  sớm đi khám bệnh nếu thấy có dấu hiệu bệnh, dùng thuốc đuổi muỗi.

6- Theo dõi, phát hiện dịch bệnh để tránh lây lan.

7- Chủng ngừa một số bệnh như bệnh sởi.

8- Loại bỏ điều kiện thuận lợi cho sự sinh sản của sinh vật chuyển-tải bệnh như muỗi tại các vùng nước ứ đọng; phát thuốc đuổi muỗi, phát mùng tẩm thuốc.

Nhân viên cứu trợ cũng cần lưu ý ở mấy điểm căn bản để tự bảo vệ:

- Coi xem chủng ngừa phong đòn gánh (tetanus) có còn hiệu lực không. Thường thường vaccin có hiệu lực bảo vệ khoảng 10 năm.

- Không dùng nước tại nơi có thiên tai cho tới khi nhà chức trách tuyên bố nước an toàn.

- Dự trữ một số nước sạch để tắm rửa, nấu nướng.

- Lưu ý và đề phòng nước bị nhiễm hóa chất thải từ các cơ sở nông, công kỹ nghệ.

- Cẩn thận khi dùng dụng cụ điện hoặc hóa chất.

- Vứt bỏ thực phẩm, nước uống nghi bị nhiễm trùng, hư hao.

- Khám bác sĩ ngay nếu bị côn trùng, súc vật cắn đốt.

 

Kết luận

Các nhà chuyên môn đều có cùng ý kiến là thi thể nạn nhân chết trực tiếp vì thiên tai không là rủi ro đưa tới các bệnh truyền nhiễm.

Trái lại, bệnh gây ra do sự thiên cư, lánh nạn của dân chúng vào các không gian chật hẹp, thiếu vệ sinh, thiếu dịch vụ y tế, thiếu thực phẩm, nước uống an toàn. Chính các hoàn cảnh này tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh truyền nhiễm xảy ra và đôi khi trở nên nguy hiểm chẳng thua gì chính thiên tai.

Tuy nhiên tử thi có thể trở nên rủi ro lây lan trong một số trường hợp như thiệt mạng vì các bệnh dịch hạch, dịch tả, thương hàn, lao, nhưng bệnh không tồn tại lâu trong cơ thể sau khi chết. Trong các trường hợp này, phân của nạn nhân chứa vi khuẩn dịch tả sẽ nhiễm vào nguồn nước và gây ra lây lan bệnh đường tiêu hóa. Thiên tai có thể góp phần lây lan các bệnh vừa kể, với điều kiện là tác nhân gây bệnh đã có sẵn tại môi trường.

Sự thực này là để nhắc nhở mọi người không nên vội vàng “hỏa thiêu, mồ chôn tập thể” tử thi nạn nhân, vì hoang sợ gây bệnh.

Thân xác tuy đã vô tri bất động, nhưng vẫn cần được thân nhân nhận diện khâm liệm, chôn cất.

Nghĩa tử là nghĩa tận” mà.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức  Texas -Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
TIỀN…BẠC   Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Chuyện rằng :

Có một nhà thám hiểm lênh đênh trên sóng nước. Trong những ngày tháng cô đơn ấy, anh ta rất thèm được liên hệ với thế giới bên ngoài. Thế nhưng, chỉ có một chú chim nhỏ sáng nào cũng bay tới và đậu trên chiếc bè của anh ta. Rồi một ngày kia, chú chim nhỏ ấy không còn bay tới nữa và anh ta cảm thấy buồn bã như mất đi một người bạn thân thương nhất.

Từ câu chuyện này, gã mới “ngộ” ra rằng một trong những nỗi đớn đau nhất mà con người thường gặp phải, đó là sự cô đơn.

Cũng vì sợ nỗi cô đơn với những bước chân âm thầm, vò võ đi sớm về khuya  một mình, mà những cô gái bước vào “tuổi băm” hằng mong ước có được một mảnh tình vắt vai.

Cũng vì sợ nỗi cô đơn với những đau yếu bệnh tật, mà những cụ già gần đất xa trời cũng cố vớt vát cho mình một chút tình trong cảnh hoàng hôn cuộc đời, bởi vì “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”.

Kinh nghiệm cho thấy chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng đoàn hay trong một xã hội.

Trong cuộc sống chung này, chúng ta phải nương tựa và cậy dựa vào nhau. Thực vậy, nơi chính bản thân, chúng ta đã mang dấu ấn của biết bao nhiêu người góp phần xây dựng. Suốt dọc cuộc đời, chúng ta cũng đã nhận lãnh biết bao nhiêu nâng đỡ và trợ giúp của những người chung quanh. Thiếu vắng người khác, e rằng chúng ta khó có thể sống và tồn tại.

Đã sống chung cùng nhau, thì đương nhiên là phải trao đổi, phải có qua có lại, bởi vì chẳng ai dám vỗ ngực tự hào rằng mình đầy đủ mọi sự, chẳng cần tới người khác. Sự trao đổi ở đây được hiểu về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của mục chuyện phiếm hôm nay, gã chỉ bàn tới phương diện vật chất mà thôi.

Trước hết, gã xin cả tiếng lại dài hơi mà thanh minh thanh nga rằng gã chẳng phải là một chuyên viên kinh tế, cũng như chưa bao giờ “ngâm kíu” sâu xa về vấn đề này, nên những điều được viết ra dưới đây, nếu có chi không đúng thì cũng xin bàn dân thiên hạ…sửa giùm và bổ túc thêm.

Bây giờ, gã xin cài số de, lùi về thời đại ban sơ. Lúc bấy giờ con người tụ họp thành những bộ lạc du mục, nay đây mai đó. Họ sinh sống bằng cách săn thú và hái trái cây trong rừng. Như vậy, họ trao đổi cho nhau những gì mình đã săn hay đã hái được. Chẳng hạn tôi trao cho anh một con thỏ rừng, thì anh sẽ đổi lại cho tôi một con gà rừng… Thế là vui vẻ, huề cả làng.

Tới một lúc nào đó trong giòng lịch sử, con người từ bỏ kiếp sống du mục, để định cư thành làng mạc, phát triển về nghề nông và trồng tỉa. Lúc bấy giờ hiện vật được đem ra trao đổi là lúa thóc và hoa trái, kết quả của biết bao nhiêu lao công vất vả, cũng như của biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt đổ xuống trên ruộng đồng. Chẳng hạn tôi trao cho anh một thúng lúa, thì anh sẽ đổi lại cho tôi một thúng khoai…

Cùng với thời gian, cuộc sống con người không ngừng phát triển và người ta bỗng nghiệm ra rằng trao đổi bằng hiện vật quả là bất tiện vì nó cồng kềnh, khó mang và khó vác. Chẳng hạn khi phải đổi hai ba trăm thúng lúa lấy hay ba trăm thúng khoai. Thật là nhiêu khê và phúc tạp. Vì thế, người ta đã chọn những hiện vật quí hiếm làm phương tiện cho những cuộc trao đổi ấy.

Những hiện vật quí hiếm này thường thay đổi theo quan niệm của từng dân tộc. Chẳng hạn có những nơi người ta dùng vỏ sò vỏ ốc làm đồ trang sức, vì thế người ta đã chọn vỏ sò vỏ ốc làm phương tiện trao đổi và qui định cứ bao nhiêu chiếc vỏ sò và vỏ ốc thì sẽ đổi được một thúng lúa. Tuy nhiên, hiện vật quí hiếm được nhiều dân chọn lựa hơn cả đó là vàng và bạc.

Cuộc sống định cư đã dần dần kiện toàn cơ cấu và tổ chức của xã hội. Các thể chế chính trị bắt đầu hình thành. Trong thời gian đầu, hầu hết các dân tộc trên thế giới đều theo chế độ quân chủ. Nhà vua là người đứng đầu và cai trị dân chúng.

Khuôn mặt nhà nước cũng xuất hiện với đầy đủ mọi quyền hành trong tay. Và thế là nhà nước nhảy vào lãnh vực kinh tế và tài chánh để ấn định và kiểm soát việc trao đổi cũng như buôn bán, bằng cách độc quyền phát hành tiền bạc, bởi vì ai nắm giữ tiền bạc là nắm giữ uy quyền, khả dĩ ảnh hưởng và chi phối được người khác. Chẳng thế mà kinh nghiệm cho thấy :

- Chữ tiền liền với chữ quyền.

Hay như người Pháp đã bảo :

- Kẻ không có tiền bạc giống như một con chó sói không có răng.

Thuở ban đầu, tiền bạc thường được đúc bằng kim loại như vàng, bạc, đồng hay một thứ hợp chất nào đó. Nhưng rồi đồng tiền kim loại xem ra cũng bất tiện vì trọng lượng của nó, mỗi khi phải trao đổi nhiều, hay mỗi khi phải buôn bán lớn và thế là người ta bèn cho lưu hành tiền giấy, tiền “po-ly-me” như chúng ta thấy hiện nay.

Trên đây mới chỉ là những nét chấm phá đại cương về lai lịch và gốc gác của tiền bạc, chắc hẳn còn rất nhiều thiếu sót, mong được bàn dân thiên hạ cảm thông vì sự hạn hẹp của gã.

Tra cứu thêm một chút bằng cách mở tự điển ra, gã thấy người ta đã định nghĩa như sau :

Tiền là vật được đúc bằng kim lọai hay in trên giấy do nhà nước phát hành để dùng trong việc mua bán.

Còn bạc là một thứ kim loại sắc trắng, lấy ở núi, thường được dùng để làm đồ trang sức cũng như thường được dùng để đúc tiền. Vì thế, bạc cũng có nghĩa là tiền.

Và khi người ta ghép hai chữ tiền bạc lại với nhau để cho mạnh nghĩa hơn, thì tiền bạc được dùng để chỉ chung mọi thứ tiền.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã hiểu được giá trị của tiền bạc, bởi vì :

- Có tiền mua tiên cũng được.

Hay như một câu “ca dao thời đại mới” vốn được cả và thiên hạ hiện nay loan truyền :

- Tiền là tiên là phật,

  Là sức bật của tuổi trẻ,

  Là sức khỏe của tuổi già,

  Là cái đà của danh vọng,

  Là cái lọng để che thân,

  Là cán cân của công lý.

Marcel Pagnol đã viết như sau :

“Tiền bạc vạn năng. Nó cho phép tất cả. Nó cho tất cả. Nếu tôi muốn có được một ngôi nhà tiện nghi hay một chiếc răng giả, nếu tôi muốn được khen tặng trên báo chí hay có được một người đàn bà trên giường…tôi có thể được tất cả những thứ ấy không phải bằng lời cầu khẩn, bằng thái độ siêng năng hay đạo đức. Chỉ cần mở tủ ra và hỏi : “Bao nhiêu ?”

Một tác giả khác cũng đã viết trên báo Tuổi Trẻ Cười như sau :

- Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,

  Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.

  Tiền nhiều : mặc kệ…vẫn hơn,

  Dẫu cho nhân sự ngả nghiêng tứ bề.

  Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,

  Phất tay một cái nhằm nhè gì ông.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng cần đến tiền, bởi vì kinh nghiệm cho thấy : đứng trước mọi công việc, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề…tiền đâu.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều thích tiền. Đưa cho đứa bé một tờ giấy bạc và một tờ giấy quảng cáo cho thuốc cao đơn hoàn tán, cũng in hình người, cũng màu sắc rực rỡ chẳng khác chi tờ giấy bạc, thế mà đứa bé vẫn cứ giơ tay ra chộp vội lấy tờ giấy bạc.

Với các cụ già cũng thế, mỗi khi được ai cho tiền, xem ra mắt các cụ sáng hơn và nụ cuời các cụ tươi hơn. Chẳng thế mà người Trung Quốc đã nói :

- Ngay cả thằng mù cũng thấy được tiền.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều phải vất vả, bươn chải ngược xuôi để tìm tiền kiếm bạc, đem về nuôi sống bản thân và gia đình. Nhiều khi làm lụng đầu tắt mặt tối và vẫn thiếu hụt, giật gấu vá vai, khiến gia đình lâm vào cảnh nheo nhóc và bất ổn.

Thế nhưng, tiền bạc vẫn mãi mãi vẫn là một con dao hai lưỡi, biết sử dụng thì đem lại lợi ích, bằng không thì chỉ đem lại những hậu quả thảm khốc, đúng như một câu danh ngôn đã bảo :

- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ hà khắc.

Thực vậy, nếu chúng ta tìm tiền kiếm bạc một cách quang minh chính đại và tiêu dùng tiền bạc một cách hợp tình hợp lý, thì tiền bạc giống như một tên đầy tớ trung thành giúp chúng ta trong nhiều công việc.

Trái lại, nếu chúng ta quá quyến luyến với tiền bạc và nhất là nếu chúng ta để cho nỗi đam mê tiền bạc chi phối, lúc bấy giờ tiền bạc sẽ trở thành một ông chủ hà khắc, giết chết những tình cảm tốt đẹp của chúng ta đối với những người chung quanh, bằng những hành động bất công : nào hối lộ, nào trộm cắp, nào bóc lột sức lao động của người khác…chúng ta sẵn sàng làm mọi việc, kể cả đạp lên người khác, để vơ vét về cho đầy túi tham của mình, nhưng làm sao nhét cho đầy, bởi vì lòng tham chính là một cái túi không đáy.

Chính vì thế, các cụ ta ngày xưa đã có lý khi ghép chữ tiền vào với chữ bạc. Chữ bạc ở đây không phải chỉ có nghĩa là tiền, mà còn có nghĩa là mỏng, kém, ít, không có lòng, không biết ơn. Chẳng hạn :

Bạc bẽo là cách ăn ở với người thân không ra gì.

Bạc nghĩa là kém nhân nghĩa, bội bạc, phản lại người làm ơn cho mình.

Bạc tình là kém tình yêu, thiếu chung thủy, không đoái hoài tới người yêu của mình nữa.

Và như vậy, tiền là một trong những nguyên nhân làm cho bạc tình bạc nghĩa, hay nói cách khác làm mất đi tình nghĩa giữa chúng ta với những người chung quanh. Điều này hẳn đã được chứng thực qua kinh nghiệm thương đau của cuộc sống thường ngày với rất nhiều những sự việc đầy cay đắng.

Trước hết là trong phạm vi gia đình.

Thứ nhất, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa giữa cha mẹ và con cái.

Có một anh chàng ca sĩ nọ rất thành công với tiếng đàn tiếng hát của mình. Anh ta kiếm được rất nhiều tiền và trở thành một “siêu sao” trên bầu trời ca nhạc. Đi tới đâu anh ta cũng được những người ái mộ vây quanh. Tiếng lành đồn xa, vọng về tới tận thôn làng hẻo lánh nơi cha mẹ anh đang sống âm thầm trong cảnh nghèo túng. Hai ông bà dành dụm được một chút tiền còm và quyết định làm một chuyến lên thành phố để được chiêm ngắm đứa con mình đã đứt ruột cưu mang và nuôi dưỡng.

Hai ông bà đứng chờ ngoài cổng rạp chờ gặp đứa con sau giờ trình diễn. Khi đứa con đi ngang qua, hai ông bà giang rộng đôi vòng tay và nói :

- Ôi con tôi.

Thế nhưng anh ta đã lạnh lùng quay mặt đi và nói :

- Ông bà mà là ba má của tôi sao ?

Anh ta không muốn cho mọi người biết được cái gốc gác “hai lúa” của mình. Thế nhưng, nếu không có những hạt lúa mà cha mẹ anh ta đã chắt chiu để gửi cho anh ta ăn học thì làm sao anh ta có được như ngày nay.

Thứ hai, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa giữa anh chị em ruột thịt với nhau.

Nguyên Huy, trong mục “truyện ngắn 100 chữ” kể lại mẩu tâm sự của một đứa cháu như sau :

Bà mất sớm. Mẹ cháu nuôi cậu học xong đại học mới lấy chồng. Cậu thành đạt, giỏi giang. Mẹ cháu luôn tự hào về cậu.

Cậu đi nước ngoài về, quà cho đồng nghiệp, cho cấp trên thật ê hề. Chỉ thiếu quà cho mẹ con cháu.

Cháu không cần quà, rụt rè sang xin cậu tiền học phí, sắp đến kỳ thi rồi. Tháng qua mẹ ốm, cháu không dạy kèm được, lại phải tiêu nhiều.

Cậu khó chịu :

- Đến khổ với mẹ con mày. Cái thân cũng lo không xong, cứ ám tao mãi thế này.

Cháu rơi nước mắt, nhớ lời ru xưa :

- Tò vò mà nuôi con nhện…

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều người ở thành phố vì sợ nhà nước giải tỏa, đã trở về miền quê. Nhiều người ở miền quê có nhiều ruộng cũng vì sợ nhà nước tịch thu, sẵn sàng cho ruộng và để những người thân ở thành phố sống trên phần đất của mình.

Sau một thời gian, tình hình trở nên lắng dịu và không thấy nhà nước “đấu tố hạng phú nông” như ở ngoài Bắc. Thêm vào đó, ruộng vườn lại có giá. Thế là người ta liền nói bóng nói gió, nói xa nói gần cốt ý đòi lại phần đất đã lỡ cho. Tới nước này thì tình nghĩa chẳng còn đẹp đẽ và đầm ấm như hôm nào.

Trong những năm gần đây nhà cửa và đất đai ở thành phố cũng như ở ngoại ô tăng giá ào ào. Không phải tấc đất tấc vàng mà nhiều khi còn hơn thế nữa. Một miếng đất nhỏ hay một căn nhà lụp xụp ngày xưa chẳng đáng giá bao nhiêu, thế mà bỗng dưng trở thành một gia tài to lớn.

Cũng chính vì thế, trên báo chí gã đã từng chứng kiến biết bao nhiêu vụ án. Anh em đâm chém nhau chỉ vì miếng đất hay căn nhà. Cha mẹ và con cái lôi nhau ra tòa cũng chỉ vì căn nhà hay miếng đất. Miếng đất và căn nhà đã hủy diệt tình nghĩa gia đình.

Thứ ba, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa vợ chồng.

Thực vậy, có tiền, anh chồng bắt đầu ăn chơi sa đọa, đèo bồng bồ nhí. Có tiền chị vợ bắt đầu khinh bỉ anh chồng, coi anh chồng chẳng còn tì “gờ ram” nào cả. Đó là những chuyện vốn thường xảy ra như cơm bữa trong xã hội hiện nay. Gã xin đưa ra một trường hợp điển hình được đăng tải trên báo “Phụ Nữ Chủ Nhật” :

Ngày anh Châu xách va li ra khỏi nhà, chị Loan uất ức nói trong nước mắt :

- Để coi ổng ngon đến cỡ nào, nhiêu đó rồi cũng ba bảy hai mươi mốt ngày thôi.

Anh Châu và chị Loan ngày xưa học cùng lớp, lấy nhau được 15 năm, có hai mặt con. Vợ chồng đều là công chức. Cuộc sống thay đổi làm con người cũng thay đổi theo. Từ ngày nghỉ làm công sở, theo bạn bè đi nuôi tôm, anh Châu bắt đầu đổi khác.

Trúng tôm, anh Châu bồ bịch, ăn chơi xả láng. Khi mọi chuyện đến tai chị Loan thì anh Châu đã sống như vợ chồng với một cô gái bán bia ôm và họ sắp có con. Vợ chồng anh ra tòa ly dị, chia đôi tài sản là căn nhà. Chị Loan dành phần nuôi con. Đễ giữ lại căn nhà, chị Loan phải vay mượn đưa cho anh Châu phân nửa tiền trị giá căn nhà.

Ly dị xong, anh Châu dọn đến sống với cô gái bán bia ôm. Một thời gian sau, chị Loan xin được công việc làm khá hơn. Nếu việc làm của chị thuận lợi bao nhiêu, thì anh Châu ngược lại. Số tiền chia đôi căn nhà, anh Châu bung ra làm ăn lớn. Không may cho anh, càng làm càng thua lỗ. Vốn liếng chẳng những không còn mà nợ nần chồng chất. Nhà cũng chẳng có, vợ chồng con cái phải trú tạm trong trại tôm giữa đồng không mông quạnh. Nhìn cuộc sống thảm hại của anh bây giờ và cuộc sống khá giả của chị Loan ai cũng xót và tiếc cho anh.

Anh Châu mặc cảm chẳng dám về thăm con, thậm chí ngày con thi đậu vào trường chuyên anh cũng chẳng dám gọi điện thoại chúc mừng, càng lúc anh càng thấy mình thấp kém so với vợ cũ và mối quan hệ cha con ngày càng xa.

Lúc này chị Loan bắt đầu hả hê :

- Quả báo nhãn tiền, gieo nhân nào, gặt quả ấy.

Mang tâm trạng của người chiến thắng trước sự thất bại của người chồng cũ, gặp ai chị Loan cũng kể lể với giọng điệu như trả thù được người đã gieo cho mình nhiều đau khổ trong quá khứ. Ngay cả với con cái, lúc nào chị cũng chì chiết :

- Ba chúng mày chắc sáng mắt ra rồi, vợ đẹp con ngoan không chịu, đi theo cái đồ tào lao, giờ chẳng ra sao, thật đáng kiếp.

Chị đâu có biết rằng dù anh Châu có phụ rẫy chị đi chăng nữa, anh cũng vẫn là ba của các cháu. Sự hả hê của chị làm cho các con đau lòng.

Tiếp đến là trong phạm vị xã hội.

Thứ nhất, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa thày trò.

Vì tiền, người ta sẵn sàng lừa thày. Một câu chuyện quá quen thuộc mà nhiều người trong chúng ta đã biết, đó là câu chuyện của Giuđa.

Giuđa là một người môn đệ được Đức Kitô tuyển chọn, yêu thương và đặt vào trong nhóm 12 tông đồ, là những người thân cận với Ngài. Thế nhưng, vì lòng đam mê tiền bạc, Giuđa đã bán Ngài bới giá 30 đồng bạc, giá mua một tên nô lệ, để rồi Ngài đã bị đóng đanh vào thập giá như một tên tội phạm.

Thứ hai, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa bè bạn.

Vì tiền, người ta sẵn sàng phản bạn. Đúng thế, bạn bè một thời đã đồng lao cộng khổ, đã nằm gai nếm mật để cùng nhau theo đuổi một lý tưởng, một mục đích nào đó, thế nhưng chỉ vì những quyền lợi riêng tư  người ta sẵn sàng quay lưng chống lại nhau. Hay chỉ vì chia chác không đều những lợi nhuận, người ta cũng sẵn sàng đấm đá và cấu xé lẫn nhau.

Nhất là khi người bạn sa cơ thất thế, người ta bèn quay phắt 180o, biến bạn thành thù để tránh đi những liên lụy, như ca dao đã diễn tả :

- Trong tay có sẵn đồng tiền,

   Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.

Tiền bạc có uy lực riêng của nó. Tuy nhiên, uy lực ấy không phải là vô song và tuyệt đối như người ta vốn thường sánh ví :

Tiền bạc có thể mua được một ngôi nhà, nhưng không mua được một mái ấm.

Tiền bạc có thể mua được một chiếc giường êm ấm, nhưng không  mua được giấc ngủ ngon lành.

Tiền bạc có thể mua được chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.

Tiền bạc có thể mua được sách vở, nhưng không mua được kiến thức.

Tiền bạc có thể mua được địa vị, nhưng không mua được lòng tin phục.

Tiền bạc có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sức khẻo.

Tiền bạc có thể mua được tình dục, nhưng không mua được tình yêu….

Và để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện như sau.

Anh kia cho người bạn vay một số tiền. Tới hẹn, người bạn không có khả năng chi trả, nên tìm cách lẩn trốn. Ngày nọ anh ta bỗng nhìn thấy người bạn đang đi trên hè phố. Anh ta vội chạy tới, khiến người bạn không thể lánh mặt. Anh ta nhìn người bạn và nói :

- Này bạn, tôi thà mất tiền còn hơn là mất bạn.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************